Theo đó, Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cho biết FDI toàn cầu trong năm nay sẽ thu hẹp từ mức 1.540 tỷ USD năm 2019 xuống dưới 1.000 tỷ USD lần đầu tiên kể năm 2005 tới nay.
UNCTAD cũng dự báo FDI sẽ còn giảm thêm 5-10% vào năm 2021 và chỉ bắt đầu phục hồi vào năm 2022.
Tổng thư ký UNCTAD Mukhisa Kituyi nói rằng nền kinh tế toàn cầu đang trong tình trạng khó khăn hơn so với thời kỳ khủng hoảng tài chính 2008.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên toàn cầu có khả năng giảm 40% trong năm nay
Theo ông Kituyi, đại dịch COVID-19 sẽ tác động mạnh đến các nước đang phát triển, khi những nước này sẽ phải đối mặt với tình trạng gián đoạn trong các ngành sản xuất chính, kiều hối và các khoản thu từ du lịch suy giảm cũng như hoạt động giao thương quốc tế thu hẹp.
Người đứng đầu UNCTAD cũng cảnh báo cú sốc từ dịch COVID-19 sẽ càng thêm phức tạp do tác động của nó đến an ninh lương thực. Điều này là do việc sản xuất các mặt hàng thực phẩm chính lại tập trung ở một vài quốc gia lớn, nơi đại dịch vẫn diễn biến phức tạp.
Ở châu Á, đại dịch được dự đoán sẽ làm giảm thu nhập từ việc tái đầu tư của các công ty liên doanh nước ngoài trong khu vực này.
Cuộc khủng hoảng cũng nêu bật tầm quan trọng của Trung Quốc và các nền kinh tế châu Á khác như những trung tâm sản xuất toàn cầu.
Báo cáo của UNCTAD cũng lưu ý 32 quốc gia kém phát triển không giáp biển đang phải vật lộn với tác động kinh tế của dịch COVID-19 đối với dòng vốn FDI, đặc biệt là khi các nước phải đóng cửa biên giới để kiểm soát dịch bệnh.
UNCTAD cho rằng những quốc gia đó không thể chuyển sang vận tải đường biển trực tiếp - vốn chuyên chở tới 80% lượng hàng hóa thương mại toàn cầu.
Ông James Zhan, Giám đốc bộ phận đầu tư và doanh nghiệp của UNCTAD, cho biết theo kinh nghiệm từ quá khứ, đầu tư quốc tế sẽ đóng vai trò then chốt trong việc phục hồi các nền kinh tế sau các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Ông nói thêm quá trình phục hồi có thể tạo ra cơ hội cho các nước thu nhập trung bình, khi các chuỗi giá trị ngày càng khu vực hóa hơn.
Trước đó, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) vừa công bố triển vọng kinh tế toàn cầu tương ứng với hai kịch bản: Một là dịch bệnh được kiểm soát; Hai là làn sóng Covid-19 lần thứ hai trong năm nay. Đồng thời, tổ chức này cho rằng không có quốc gia nào có thể mong đợi sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ theo một trong hai kịch bản.
Kịch bản thứ nhất, trong trường hợp dịch bệnh được kiểm soát, nền kinh tế toàn cầu sẽ giảm 6% trong năm nay và tăng 5,2% trong năm tới.
Kịch bản thứ hai, trong trường hợp bùng phát làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ hai vào cuối năm, sản lượng kinh tế thế giới có thể giảm tới 7,6% trong năm 2020. Tuy nhiên, tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong năm 2021 sẽ đạt từ 2,8%-5,2%.
OECD cho rằng không có quốc gia nào có thể mong đợi sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ theo một trong hai kịch bản
OECD dự báo kinh tế Mỹ có thể tăng trưởng âm 7% trong năm 2020 còn kinh tế khu vực đồng tiền chung châu Âu có thể tăng trưởng âm 9%. Kinh tế Italia, Pháp và Anh có thể suy giảm tăng trưởng đến hơn 11%.
Theo OECD, chính phủ các nước đang đương đầu với thách thức chưa từng có tiền lệ, với việc đã chi ra hàng tỷ USD để giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động và hỗ trợ người lao động cho đến khi nền kinh tế mở cửa trở lại. Các nhà hoạch định chính sách sẽ cần phải cân bằng giữa việc hỗ trợ ngoại lệ này và không để tình trạng hỗ trợ này kéo dài trong thời gian quá dài.
Trong đánh giá mới nhất của mình về kinh tế thế giới, OECD cho rằng vào cuối năm 2021, phần thu nhập bị mất sẽ cao hơn tất cả các kỳ suy thoái kinh tế trong hơn 100 năm qua, gây hậu quả lâu dài và tiêu cực đối với người dân, các doanh nghiệp và chính phủ.
Một số nước sẽ chứng kiến nợ tư nhân ở mức đáng quan ngại và nguy cơ nhiều doanh nghiệp phá sản là rất lớn.
Hồng Nga