![]() |
Ngành nội thất xanh nếu tận dụng tốt có thể nâng kim ngạch xuất khẩu gỗ lên 30 tỷ USD vào năm 2035, đồng thời thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ đạt chuẩn toàn cầu. |
Động lực tăng trưởng từ các ngành sản xuất chủ lực
Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã vươn từ vị trí thứ 39 năm 2021 lên Top 33 vào năm 2024 và dự kiến đạt Top 30 vào năm 2025 với GDP hơn 505 tỷ USD. Đây là kết quả đáng ghi nhận, thể hiện độ mở và năng lực sản xuất, xuất khẩu mạnh mẽ của nền kinh tế. Năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt hơn 786 tỷ USD, đưa nước ta vào nhóm 20 nền kinh tế có độ mở cao nhất thế giới.
Trong bức tranh ấy, nhiều lĩnh vực đã vươn lên nhóm dẫn đầu như dệt may, gỗ, nội thất, điện tử, chế biến thực phẩm, thủy sản và thiết bị công nghiệp. Ông Nguyễn Quốc Khanh, Chủ tịch AA Corporation, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST), cho biết Việt Nam đang có dư địa lớn trong công nghiệp chế biến sâu. “Ngành nội thất xanh nếu tận dụng tốt có thể nâng kim ngạch xuất khẩu gỗ lên 30 tỷ USD vào năm 2035, đồng thời thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ đạt chuẩn toàn cầu”, ông nói.
Với ngành chế biến thực phẩm, ông Diệp Nam Hải, Tổng Giám đốc Công ty CP Xuất nhập khẩu và Đầu tư Chợ Lớn (Cholimex Food), nhận định đây là lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng mạnh nhất. “Sản phẩm của Cholimex đã có mặt tại 30 quốc gia, song cơ hội lớn hơn nằm ở việc doanh nghiệp Việt biết kết hợp giá trị truyền thống với công nghệ hiện đại để chinh phục phân khúc cao cấp”, ông chia sẻ.
Theo các nghiên cứu quốc tế, ngành chế biến thực phẩm và đồ uống Việt Nam đạt quy mô hơn 79 tỷ USD năm 2024, chiếm gần 20% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng trưởng bình quân 7% mỗi năm. Thị trường thực phẩm đóng gói dự kiến đạt 26,9 tỷ USD vào năm 2028, mở ra dư địa lớn cho đầu tư bao bì xanh, công nghệ chế biến và truy xuất nguồn gốc. Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), nhấn mạnh: “Ngành dệt may Việt Nam hiện đứng Top 3 thế giới với kim ngạch xuất khẩu 42,1 tỷ USD; đồ gỗ và nội thất đứng thứ 2; còn thủy sản đạt 10 tỷ USD. Đây là minh chứng cho vị thế mới của hàng Việt trong chuỗi cung ứng toàn cầu”.
Tăng nội lực và hoàn thiện thể chế phát triển bền vững
![]() |
Dây chuyền đóng gói xúc xích tại Công ty CP Việt Nam Kỹ nghệ súc sản Vissan. Ảnh: Hoàng Hùng |
Theo TS. Phạm Thị Hồng Phượng, cố vấn cao cấp Trung tâm Đổi mới sáng tạo, Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM, nền công nghiệp Việt Nam vẫn thiếu bền vững khi phần lớn doanh nghiệp phụ thuộc gia công và nguyên liệu nhập khẩu. Hiện có đến 60% nguyên liệu chế biến trong ngành lương thực - thực phẩm phải nhập khẩu, trong khi chỉ khoảng 15% doanh nghiệp dệt may đạt chứng nhận ISO 14001, chủ yếu mới dừng ở xử lý nước thải hoặc tiết kiệm năng lượng.
Để nâng nội lực, bà Phượng cho rằng doanh nghiệp cần chuyển sang mô hình sản xuất tuần hoàn, đầu tư công nghệ tái chế, năng lượng sạch và chuẩn hóa quy trình theo tiêu chuẩn ESG, từ đó đủ điều kiện tham gia các thị trường lớn như EU, Mỹ hay Nhật Bản. Cộng đồng doanh nghiệp cũng kiến nghị Nhà nước sớm tháo gỡ nút thắt nội lực. Việt Nam không thể tiếp tục dựa vào lao động giá rẻ hay gia công đơn thuần, mà cần hình thành liên kết giữa doanh nghiệp – viện nghiên cứu – trường đại học, tạo chuỗi giá trị nội địa hóa.
Hơn 90% doanh nghiệp Việt có quy mô vừa và nhỏ, nên việc hợp tác theo cụm ngành sẽ giúp nâng tỷ lệ nội địa hóa lên 50% vào năm 2030, hướng tới nền công nghiệp chế tạo tự chủ. Ông Trịnh Tiến Dũng, Tổng Giám đốc Tập đoàn Đại Dũng, cho rằng Nhà nước nên tạo không gian cho doanh nghiệp Việt tham gia các công trình trọng điểm quốc gia. “Hiện cả nước đang triển khai hàng loạt dự án lớn về giao thông, metro, năng lượng tái tạo, công nghiệp chế tạo… với tổng vốn đầu tư hàng chục tỷ USD. Đây là cơ hội vàng nếu có chính sách phù hợp”, ông nhận định.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước vẫn gặp khó khăn do thiếu vốn dài hạn, khó tiếp cận tín dụng xanh và giá đất công nghiệp cao hơn khu vực. Bên cạnh đó, cơ chế giao thầu còn bất cập khiến doanh nghiệp khó tham gia sâu vào các dự án trọng điểm. Vì vậy, cần phát triển mạng lưới nhà sản xuất phụ trợ theo mô hình hợp tác công – tư, kết nối doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ, đồng thời cho phép chỉ định thầu có điều kiện với tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu 50%, ưu tiên quỹ đất sạch và tín dụng xanh cho đổi mới công nghệ.
Ở tầm chiến lược, PGS-TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cho rằng Việt Nam đang ở thời điểm bản lề, đòi hỏi một tư duy và logic cải cách mới. “Không thể chỉ điều chỉnh cục bộ, mà phải tái cấu trúc toàn diện hệ thống kinh tế để bước vào kỷ nguyên công nghệ cao và kinh tế xanh”, ông nói. Theo ông Thiên, khu vực tư nhân – hiện đóng góp hơn 50% GDP, 83% việc làm và 30% ngân sách – cần được tạo điều kiện phát huy tối đa tiềm năng thông qua môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh bình đẳng.
Chuyên gia kinh tế Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Mạng lưới UAV Việt Nam, cho rằng Việt Nam có thể phát triển “kinh tế tầm thấp” – tức khai thác lĩnh vực công nghệ vừa và nhỏ như UAV, robot, logistics thông minh, nông nghiệp chính xác hay y tế từ xa. Những mô hình này có chi phí thấp nhưng hiệu quả lan tỏa cao, tạo việc làm và mở không gian tăng trưởng mới. Ông đề xuất Nhà nước nên khuyến khích thử nghiệm công nghệ, ưu tiên tín dụng xanh và đào tạo nguồn nhân lực kỹ sư xanh, chuyên gia chuỗi cung ứng bền vững để tạo nền tảng lâu dài cho kinh tế sáng tạo.