Giá cà phê hôm nay tiếp tục giảm 100 đồng/kg
Giá cà phê hôm nay (3/10) giá cà phê trong nước giảm 100 đồng/kg, hiện giao dịch trung bình ở mức 66.400 đồng/kg.
Giá cà phê cao nhất thu mua ở các vùng trọng điểm của Tây Nguyên (Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Nông, Kon Tum) được ghi nhận ở mức 66.700 đồng/kg.
Theo đó, tỉnh Lâm Đồng có giá thấp nhất là 65.900 đồng/kg. Kế đến là tỉnh Gia Lai với 66.300 đồng/kg.
Cùng thời điểm khảo sát, tỉnh Đắk Lắk có giá thu mua là 66.500 đồng/kg.
Đắk Nông ghi nhận mức giao dịch là 66.700 đồng/kg - cao nhất trong các địa phương được khảo sát.
Theo ghi nhận, giá cà phê trên thị trường thế giới biến động trái chiều. Theo đó, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 11/2023 được ghi nhận tại mức 2.461 USD/tấn sau khi giảm 0,04% (tương đương 1 USD).
Giá cà phê arabica giao tháng 12/2023 tại New York ở mức 149,1 US cent/pound sau khi tăng 2,02% (tương đương 2,95 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h40 (giờ Việt Nam).
Trong ngày giao dịch đầu tiên của tháng 10/2023 cũng như của niên vụ mới, giá cà phê 2 sàn chuyển biến tích cực giữa mối lo nguồn cung thắt chặt. Sau quãng thời gian ở vùng quá mua và giảm mạnh tuần trước, đầu tuần này Arabica đã bật tăng trở lại. Tuần trước giá cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 12 giảm tất cả 5 cent, tức giảm 3,31%.
Tổng cục Thống kê Việt Nam ước báo xuất khẩu cà phê trong tháng 9 đạt 90 ngàn tấn, xấp xỉ 1,5 triệu bao, tăng 6,32% so với tháng trước nhưng lại giảm 6,81% so với cùng kỳ năm trước. 9 tháng đầu năm, xuất khẩu cà phê Việt Nam đạt 1,207 triệu tấn (khoảng 20,12 triệu bao), giảm 11,65% so với cùng kỳ năm trước. Số liệu trên cho thấy nguồn cung đang gặp khó ở quốc gia sản xuất cà phê lớn thứ 2 thế giới, qua đó hỗ trợ giá tăng.
Tồn kho cà phê Robusta trên sàn London tính đến thứ Sáu ngày 29/9 đã giảm 110 tấn, tức giảm 0,26 % so với một tuần trước đó, xuống đăng ký ở mức 42.780 tấn (khoảng 713.000 bao, bao 60 kg).
Tuy nhiên chuyên gia dự báo đà tăng của Arabica không bền vững khi đồng USD tiếp tục tăng quá cao. Rạng sáng 3/10 trên thị trường Mỹ, chỉ số US Dollar Index (DXY) đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) tăng 0,79%, đạt mốc 107,02.
Đồng USD tăng sau khi dữ liệu kinh tế mới một lần nữa ủng hộ quan điểm rằng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ duy trì lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn. Cùng với đó thông tin dự báo thời tiết vùng cà phê chính ở miền nam Brazil có mưa thuận lợi sẽ không ủng hộ giá cà phê kỳ hạn sàn New York.
Giá tiêu hôm nay vẫn neo trong ở mức 72.500 đồng/kg
Giá tiêu hôm nay (3/10) giá tiêu tại các tỉnh trọng điểm trong nước đang dao động trong khoảng 69.000 - 72.000 đồng/kg.
Theo đó, Gia Lai và Đồng Nai đang ghi nhận mức giá lần lượt là 69.000 đồng/kg và 69.500 đồng/kg.
Hồ tiêu tại hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông vẫn được thu mua với cùng mức giá là 70.500 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu cũng ổn định tại mức tương ứng là 71.000 đồng/kg và 72.000 đồng/kg.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam tháng 8 đạt 20.137 tấn, kim ngạch 75,3 triệu USD, tăng 32% về lượng và tăng 32,4% về kim ngạch so với tháng trước; đồng thời tăng 9% về lượng và 0,2% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022.
Tính chung 8 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam đạt 188.059 tấn, tăng 17% về lượng (tương ứng 27.359 tấn) so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, do giá xuất khẩu thấp hơn cùng kỳ nên kim ngạch giảm 13,8% xuống còn 615,5 triệu USD.
Giá xuất khẩu trung bình mặt hàng hồ tiêu tháng 8 đạt mức cao nhất kể từ tháng 11/2022 với 3.741 USD/tấn, tăng 0,3% so với tháng trước, nhưng giảm 8,1% so với tháng 8/2022.
Bình quân 8 tháng đầu năm, giá xuất khẩu hồ tiêu đạt 3.273 USD/tấn, giảm 26,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Về chủng loại, tiêu đen nguyên hạt chiếm đến 79,8% tổng xuất khẩu hồ tiêu của nước ta trong 8 tháng đầu năm với khối lượng lên đến 149.828 tấn, tăng 28,2% (32.983 tấn) so với cùng kỳ năm ngoái.
Ngược lại, xuất khẩu các chủng loại khác đều giảm như tiêu đen xay giảm 20,3% và chiếm 9,4% tỷ trọng; tiêu trắng nguyên hạt cũng giảm 11,1% và chiếm 7,6% tỷ trọng; tiêu trắng xay giảm 29,2% và tiêu ngâm giấm, mộc, đầu đinh, xanh, hồng... giảm 7%.