Theo báo cáo của Bộ Xây dựng tại buổi làm việc về Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050 (ngày 18/6), ngành vật liệu xây dựng (VLXD) trong những năm qua không ngừng được đầu tư, đổi mới và phát triển, tất cả các lĩnh vực sản xuất VLXD đều có sự chuyển biến một cách tích cực.
Cụ thể, công suất thiết kế và sản lượng một số sản phẩm VLXD đã tăng gấp 2-3 lần so với 10-15 năm trước. Mẫu mã sản phẩm đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn của các nước phát triển đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng ngày càng cao và đa dạng của thị trường trong nước, từng bước thay thế hàng nhập khẩu và đã xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhiều loại VLXD của Việt Nam có số lượng, chủng loại hàng đầu thế giới (xi măng, clanhke, gốm-sứ xây dựng…).
Trong những năm qua, ngành sản xuất VLXD đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng. Công tác xây dựng thể chế liên quan đến phát triển VLXD được quan tâm, đã từng bước tạo hành lang pháp lý để thúc đẩy phát triển VLXD đáp ứng yêu cầu của ngành xây dựng.
Công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển VLXD đã được thực hiện ở một số sản phẩm chủ yếu, quan trọng. Công tác quản lý phát triển VLXD được chú trọng nhằm nâng cao chất liệu VLXD, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tiết kiệm tài nguyên. Nhiều vật liệu mới được nghiên cứu, ứng dụng hiệu quả.
Vật liệu xây dựng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
Tuy nhiên thực tế, việc đầu tư phát triển một số chủng loại VLXD còn chưa hợp lý, quy mô nhỏ, phân tán, hiệu quả đầu tư chưa cao. Lĩnh vực xuất khẩu VLXD có hàm lượng nguyên liệu, tài nguyên nhiều, trong khi hàm lượng sáng tạo, giá trị gia tăng còn thấp. VLXD mới chậm phát triển, chưa có nhiều sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu trong nước và có sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu, phát triển chưa được DN quan tâm hoặc đầu tư thiếu hiệu quả; nghiên cứu chưa gắn với đầu tư, sản xuất.
Theo TS. Trần Bá Việt, Phó Chủ tịch Hội bê tông Việt Nam, Việt Nam đang xếp thứ 5 trên thế giới về năng lực sản xuất xi măng, chỉ sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ và Nga. Mỗi năm, Việt Nam xuất khẩu hàng chục nghìn tấn xi măng nhưng giá trị xuất khẩu không cao, trong khi đây là ngành sản xuất tiêu tốn nhiều năng lượng. Trên cơ sở đó, ông Trần Bá Việt kiến nghị cần sớm nghiên cứu để có thể xuất khẩu cấu kiện bê tông đúc sẵn với giá trị kinh tế cao hơn nhiều; hạn chế tối đa việc xuất khẩu clanhke, xi măng trong thời gian tới.
Ông Thái Duy Sâm, nguyên Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho rằng, chiến lược nêu định hướng ưu tiên đầu tư dự án vật liệu xây dựng mới. Tuy nhiên, cần phải lựa chọn những loại vật liệu mà Việt Nam phải có lợi thế cạnh tranh, chứ không phải vật liệu mới nào cũng nghiên cứu, sản xuất. Đồng thời, việc xuất khẩu vật liệu xây dựng thì cũng cần đánh giá xuất khẩu gì có lợi, tránh làm thất thoát, cạn kiệt nguồn tài nguyên của quốc gia. Do đó, việc quản lý nhà nước đối với phát triển vật liệu xây dựng phải căn cứ vào chỉ tiêu về chất lượng, tiêu chuẩn, môi trường.
PGS. TS Lương Đức Long, nguyên Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho rằng, bối cảnh hiện nay đòi hỏi cách thức quản lý ở ngành VLXD rất khác trước. Do đó, 4 vấn đề phải lưu ý trong chiến lược nhằm quản lý phát triển VLXD là: Môi trường, chi phí tiêu hao nguyên liệu tự nhiên và năng lượng; mức độ tiên tiến về công nghệ và tái sử dụng các chất thải.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng
Trong giai đoạn tới, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hoá sẽ tiếp tục diễn ra rất mạnh mẽ ở nước ta. Do đó, phát triển VLXD để đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước là nhiệm vụ rất quan trọng. Đồng thời, nhu cầu VLXD trên thế giới cũng sẽ ngày càng tăng cao, vì vậy, ngành VLXD cũng cần hướng tới mục tiêu nâng cao kim ngạch, giá trị xuất khẩu.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng đánh giá, VLXD có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo dựng lên các công trình xây dựng, tạo cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ đầu tư xây dựng ngày càng tăng.
Phó Thủ tướng cho rằng “Chúng ta phải phát triển đa dạng hóa các sản phẩm VLXD, trong đó phát triển mạnh các VLXD mới, thân thiện với môi trường và có giá trị gia tăng cao để dần thay thế cho các VLXD truyền thống. Đồng thời, có các giải pháp tổng thể, đồng bộ để xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị cho các sản phẩm VLXD của Việt Nam”
Để thực hiện được các mục tiêu trên, trước hết phải xây dựng một chiến lược VLXD trong thời kỳ mới (đến 2030 tầm nhìn 2050). Phó Thủ tướng nhấn mạnh, yêu cầu trong chiến lược phát triển ngành VLXD phải gắn với ứng dụng công nghệ tiên tiến hiện đại; tiết kiệm tài nguyên, tận thu phế thải tái chế thành VLXD; giảm tiêu thụ năng lượng và phát thải carbon thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường.
Theo đó, phải gắn phát triển VLXD với tái chế, tái sử dụng các chất thải công nghiệp, nông nghiệp và xử lý rác thải nhằm bảo vệ môi trường; đẩy mạnh phát triển các sản phẩm VLXD mới có giá trị kinh tế cao, ít tiêu thụ năng lượng; nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của VLXD Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Hà Anh