Cây bần hay còn được gọi là Bần sẻ, Bần chua, thuộc họ Bần (Sonneratiaceae), có tên khoa học là Sonneratia caseolaris.
Cây bần có nguồn gốc từ các nước Đông Nam Á và Nam Á, nhưng hiện nay đã được di thực ở nhiều khu vực trên Thế Giới như Châu Đại Dương, Châu Phi và Châu Á. Ở Việt Nam, cây bần thường xuất hiện ở các tỉnh bến biển từ Hải Phòng đến Cà Mau, nhưng nhiều nhất là ở khu vực Tây Nam Bộ.
Cây Bần là một loài thực vật thân gỗ, có chiều cao trung bình từ 10-15m. Một số cây có thể cao đến 25m nếu phát triển trong điều kiện lý tưởng. Thân cây được chia thành nhiều cành, cành non thường được phân thành nhiều đốt phình to và có màu đỏ. Chất gỗ của cây bần rất bở và xốp nên hầu như không được sử dụng để sinh hoạt.
Rễ của cây bần khá phát triển, mọc sâu xuống dưới bùn đất, mọc từ thân rễ thành từng khóm quanh gốc rất đặc trưng. Lá mọc đối xứng, có hình trái xoan hoặc bầu dục, dày nhưng khá giòn. Lá bần dài từ, 5-10cm, rộng 35-45mm, cuống lá có gân giữa nổi rõ.
Hoa của cây bần thường mọc thành cụm ở đầu cành, cuống dài từ 0.5-1.5cm, cụm hoa dài 5cm và chứa từ 2-3 bông nhỏ. Đài hoa xòe mặt ngoài màu lục, mặt trong màu tím hồng. Mỗi hoa có 6 cánh, thuôn ở 2 đầu, màu trắng lục.
Quả cây bần cao khoảng 2-3cm, đường kính 5-10cm, bên trong chứa rất nhiều hạt.
Công dụng của cây bần trong đời sống
Trong ẩm thực quả bần chín được làm chất chua để nấu canh chua hoặc lẩu chua. Quả bần non (bần chát) và bần giá (bần chua) thường được cắt mỏng để làm rau ghém.
Cây bần còn có tác dụng làm bột giấy, gỗ cây bần có thể dùng để chế biến để làm giấy kraft. Được biết ở Philippines sản lượng khai thác trắng cây bần qua luân kỳ 10 năm được 157 tấn chất khô/ha, trong đó gỗ bần chiếm 74.4 tấn/ha và sản lượng bột giấy được thu hồi là 30 tấn/ha.
Việt Nam chúng ta nên chú tâm đến việc khai thác và thâm canh gỗ bần làm bột giấy để giúp công nghiệp phát triển giấy nước ta ngày một phát triển hơn.
Công dụng của cây bần chua trong y học
Theo báo Phụ Nữ, được biết các thành phần hoá học trong cây bần bao gồm: Vỏ cây chứa 10-20% tannin, archinin, archin, chất màu. Gỗ bần chứa 17,6% pentosan có màu nâu và 8.5% lignin. Quả bần chứa chất màu, archicin, archin, 11% pectin và 2 chất flavonoid có tác dụng tiêu viêm và giảm đau, trị bong gân và chảy máu do vết thương hở rất hiệu quả.
Theo VTC News, Trên thế giới, Ấn Độ sử dụng dịch quả bần lên men để cầm máu và điều trị các chứng bệnh xuất huyết. Người Myanmar dùng trái bần tươi, đem giã nát rồi thêm muối vào và đắp trực tiếp vào vết bầm do máu ứ. Tại Malaysia, lá tươi của cây bần được sử dụng để chữa bí tiểu tiện. Ngoài ra, người dân còn ăn quả bần chín để tiêu diệt ký sinh trùng sống trong sán, giun, bệnh đậu mùa, bệnh thiếu máu tiểu cầu,
Người Philipines sử dụng quả non và lá bần giã nhuyễn để giảm sưng, trị bong gân và cầm máu.
Các bài thuốc chữa bệnh từ các bộ phận của cây
Bài thuốc chữa bí tiểu tiện: Bạn cần phải có cơm quả bần và lá bần, đem đi giã nát rồi đắp vào bụng dưới, bài thuốc này chữa bí tiểu tiện rất hiệu quả.
Bài thuốc trị viêm tấy và bong gân: Bạn lấy quả bần non đem đi rửa sạch rồi giã nát đắp lên các vùng bị sưng tấy, có thể dùng băng cố định thay 1 lần/ ngày.
Những lưu ý khi sử dụng các bộ phận của cây bần trong điều trị bệnh
Bạn cần phân biệt được với cây bần ổi (Sonneratia ovata Bak), loài thực vật này có hình bầu dục, vỏ thân tróc thành từng mảng cũng thường mọc ở những khu rừng ngập mặn nhưng quả có vị chua và thơm hơn, tránh bị nhầm lẫn nhé.
Vì quả bần có vị chua nên tránh ăn khi bụng đói và những trường hợp bị viêm loét dạ dày cần phải cân nhắc trước khi sử dụng.