Giá cà phê hôm nay tiếp tục tăng 200 đồng/kg
Giá cà phê hôm nay (12/11), ghi nhận thị trường cà phê trong nước đi ngang so với cùng thời điểm hôm qua.
Tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc (Lâm Đồng) giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 57.600 đồng/kg.
Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay ở mức 58.300 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua cùng mức 58.200 đồng/kg.
Tương tự tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê hôm nay thu mua ở mức 58.200 đồng/kg tại Gia Nghĩa và 58.100 đồng/kg ở Đắk R'lấp.
Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê hôm nay ở mức 58.200 đồng/kg (Chư Prông), ở Pleiku và La Grai cùng giá 58.100 đồng/kg.
Còn giá cà phê hôm nay tại tỉnh Kon Tum được thu mua với mức 58.100 đồng/kg.
Theo Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (VICOFA), kết thúc niên vụ 2022-2023 (từ tháng 10/2022 đến tháng 9/2023), xuất khẩu cà phê Việt Nam đạt 1,66 triệu tấn (hơn 27,7 triệu bao, 60kg/bao), giảm 4,5% so với niên vụ trước.
Tuy nhiên, kim ngạch thu về tăng 3,4% lên mức 4,08 tỉ USD (đây là mức kim ngạch cao nhất từ trước đến nay). Như vậy, giá xuất khẩu cà phê trung bình của Việt Nam đạt 2.451 USD/tấn.
Xét theo từng loại cà phê xuất khẩu, cà phê Robusta chiếm tỉ lệ cao nhất với 1,49 triệu tấn, kim ngạch 3,25 tỷ USD; cà phê nhân Arabica chỉ xuất khẩu 41.500 tấn, kim ngạch 169 triệu USD; cà phê nhân đã khử cafein 36.000 tấn, kim ngạch 136 triệu USD.
Đáng chú ý, cà phê rang xay và hòa tan xuất khẩu khoảng 90.000 tấn (chưa quy đổi ra cà phê nhân), kim ngạch khoảng 510 triệu USD (khối lượng chiếm khoảng 5,4% và kim ngạch chiếm khoảng 12,5% tổng các loại cà phê xuất khẩu trong niên vụ cà phê 2022- 2023).
Tính trong 10 tháng đầu năm 2023, tổng lượng cà phê xuất khẩu đạt gần 1,3 triệu tấn, kim ngạch gần 3,3 tỉ USD; giảm gần 11% về số lượng và 1,2% về kim ngạch.
Ông Đỗ Hà Nam - Phó Chủ tịch VICOFA thông tin, giá cà phê xuất khẩu tăng cao đã tạo điều kiện tăng giá cà phê trong nước. Vài tháng gần đây, giá cà phê nhân trong nước dao động 60.000 - 68.000 đồng/kg (cao kỷ lục trong hàng chục năm qua), giúp giá trị niên vụ qua tăng mạnh.
"Nhiều quốc gia sản xuất cà phê bị giảm sản lượng, trong khi đó nhu cầu thế giới vẫn đang ở mức tốt, đặc biệt từ Trung Quốc. Do đó, già cà phê trong thời gian tới khả năng duy trì ở mức tốt so với mọi năm", ông Nam nhận định.
VICOFA dự báo, niên vụ cà phê 2023-2024 sẽ thu hoạch muộn hơn niên vụ trước. Một số địa phương như: Gia Lai, Kon Tum, Sơn La sẽ thu hoạch cà phê sớm hơn vào cuối tháng 10, đầu tháng 11 và thu hoạch rộ cuối tháng 12/2023.
Dù giá cà phê đang cao nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, ngành hàng này sẽ gặp những khó khăn nhất định như: Diện tích suy giảm, chịu ảnh hưởng bởi quy định chống phá rừng và suy thoái rừng từ châu Âu...
Theo quy định này, 7 mặt hàng bao gồm: Cà phê, ca cao, dầu cọ, đậu tương, gia súc, gỗ, cao su và các sản phẩm chế biến có liên quan như: Đồ gỗ, lốp, thịt đông lạnh, các sản phẩm in... sẽ không được phép nhập khẩu vào thị trường EU nếu sản phẩm được trồng trên đất phá rừng vào thời điểm từ 31/12/2020 trở lại đây. Từ tháng 12/2024 sẽ chính thức áp dụng đối với các tập đoàn lớn và tháng 6/2025 sẽ chính thức áp dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quy định này được xem như là rào cản cho hàng hóa nhập khẩu vào EU, trong đó có cà phê Việt Nam.
Bên cạnh đó, dù đã tăng lượng cà phê chế biến xuất khẩu, song lãnh đạo VICOFA cũng nhìn nhận, ngành cà phê như các nông sản khác chủ yếu sản xuất xuất khẩu sản phẩm thô. Cà phê chế biến sâu chiếm chưa đến 10% tổng sản lượng và chủ yếu tiêu thụ trong nước.
Để nâng cao giá trị cà phê xuất khẩu, hiện nhiều doanh nghiệp đã đầu tư hơn cho chế biến cà phê. Ông Phan Minh Thông - Chủ tịch Tập đoàn Phúc Sinh cho biết, sau xuất khẩu cà phê nguyên liệu, Phúc Sinh đã xuất cà phê thương hiệu riêng (K COFFEE) chứ không nhận gia công.
Để thương hiệu đi sâu vào kênh phân phối nước ngoài, Phúc Sinh đã ký kết với đối tác để đưa cà phê K Coffee vào các siêu thị, chuỗi cửa hàng thực phẩm tại Mỹ từ năm 2022. Ngoài ra, sản phẩm còn được bán trên sàn thương mại điện tử Amazon, Walmart, Faire. Sắp tới, K Coffee còn được đối tác này xuất khẩu sang EU, Úc, New Zealand và Nhật Bản từ tháng 12.
Ông Vương Văn Hải - Chủ tịch Hội Cà phê Sơn La - cho biết, do diện tích ít, chỉ 20.000 ha nên nông dân phải tập trung vào cà phê đặc sản. Tuy không phải là cây trồng có hiệu quả kinh tế cao nhất nhưng cà phê có ưu điểm ổn định nên nông dân vẫn giữ vững diện tích.
"Đáng chú ý, trước đây, 80% cơ sở chế biến cà phê Sơn La là nhỏ lẻ nên chưa nâng được giá trị sản phẩm. Gần đây, tỉnh có chính sách thu hút đầu tư các nhà máy chế biến lớn, công nghệ cao để nâng tầm cà phê Sơn La" - ông Hải thông tin.
Ông Đỗ Hà Nam chia sẻ, Indonesia luôn bán cà phê nguyên liệu với giá cao nhất thế giới bởi họ có trụ đỡ là ngành chế biến cà phê chiếm đến 50% sản lượng sản xuất. Việt Nam khó hơn khi có sản lượng cà phê nhiều hơn Indonesia 3-4 lần nhưng tiêu thụ nội địa chỉ bằng một nửa. "Đầu tư vào chế biến cần vốn lớn, công nghệ, thương hiệu... Tín hiệu tích cực là từ khi có Hiệp định Thương mại tự do EU - Việt Nam (EVFTA), không chỉ doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài cũng đầu tư vào chế biến cà phê rất nhiều và đang nâng dần tỉ lệ cà phê chế biến xuất khẩu" - ông Nam dẫn chứng.
Giá tiêu hôm nay không có thay đổi mới
Giá tiêu hôm nay (12/11), tuần này ghi nhận tăng khoảng 500 - 1.000 đồng/kg so với đầu tuần tại một số tỉnh trọng điểm.
Theo khảo sát, mức giá thấp nhất hiện là 66.000 đồng/kg được ghi nhận tại tỉnh Gia Lai và Đồng Nai. Trong đó, giá tiêu tại Gia Lai tăng nhẹ 500 đồng/kg, song giá tại Đồng Nai liên tục đi ngang trong tuần.
Hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông hiện đang thu mua hồ tiêu với chung mức 67.000 đồng/kg, không có thay đổi so với đầu tuần.
Tương tự, giá tiêu tại Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu lần lượt tăng 500 đồng/kg và 1.000 đồng, lên mức tương ứng là 68.000 đồng/kg và 69.000 đồng/kg.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu tiêu của Việt Nam trong tháng 10/2023 đã tăng trở lại, đạt 19.401 tấn, tăng 7,1% so với tháng 9 và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2022. Kim ngạch đạt 73,18 triệu USD, tăng 8,4% so với tháng 9 và tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2022.
Lũy kế 10 tháng năm 2023, xuất khẩu tiêu đạt 225.438 tấn, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2022; kim ngạch đạt 755,63 triệu USD, giảm 9,7%.
Giá tiêu xuất khẩu trung bình trong tháng 10/2023 tăng, đạt 3.772 USD/tấn, tăng 1,2% so với tháng 9/2023, nhưng vẫn giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2022. Lũy kế 10 tháng năm 2023, giá tiêu xuất khẩu trung bình đạt 3.352 USD/tấn, giảm 23,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Trên thị trường thế giới, theo số liệu của Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (USITC), nhập khẩu hồ tiêu của nước này trong tháng 8 tiếp tục giảm tháng thứ 6 liên tiếp so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 5.900 tấn, tương ứng giảm 31%.
Lũy kế 8 tháng đầu năm, nhập khẩu hồ tiêu của nền kinh tế số 1 thế giới giảm 25,9% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ đạt 46.216 tấn.
Trong đó, lượng nhập khẩu từ hầu hết thị trường chính đều giảm trong 8 tháng đầu năm với Việt Nam giảm 20,1%, xuống còn 36.372 tấn và chiếm 79% thị phần.
Tiếp theo là Ấn Độ đạt 3.953 tấn, giảm 4,2% và chiếm 8% thị phần; Indonesia đạt 2.219 tấn, giảm 58,4%; Brazil giảm mạnh nhất với mức giảm lên tới 70,5%, đạt 1.455 tấn…
Nhập khẩu hồ tiêu của Mỹ từ một số nước tuy không nhiều nhưng tăng rất mạnh như Zimbabwe đạt 315 tấn, tăng gấp 3,2 lần so với cùng kỳ năm ngoái; Mexico tăng 34,2%; Nam Phi tăng 56,8%; đặc biệt Campuchia tăng gần 18 lần lên 77 tấn so với chỉ 4 tấn của cùng kỳ.