| Vì sao truy xuất nguồn gốc nông sản Việt Nam vẫn “kẹt” ở dữ liệu? Công nghệ – chìa khóa đưa nông sản Việt vào Nhật Bản Nông sản Việt khẳng định chất lượng, thương hiệu ngay trên "sân nhà" |
Tiêu chuẩn khắt khe và rào cản từ tư duy sản xuất cũ
![]() |
| Đặc biệt quy định EUDR buộc các mặt hàng như cà phê phải chứng minh được nguồn gốc đất đai hợp pháp và hoàn toàn không liên quan đến phá rừng hay suy thoái rừng. |
Thực tiễn từ những ngành hàng chủ lực như cà phê hay chuối cho thấy các thị trường nhập khẩu đang áp dụng những bộ quy chuẩn kỹ thuật vô cùng nghiêm ngặt. Từ dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đến khả năng truy xuất nguồn gốc hay quy định chống phá rừng EUDR của Liên minh châu Âu, sự minh bạch nguồn gốc xuất xứ đã trở thành điều kiện bắt buộc không thể thương lượng. Nếu không tuân thủ nghiêm, nguy cơ bị cảnh báo hoặc thu hồi mã số vùng trồng, thậm chí là dừng xuất khẩu toàn ngành hàng là hiện hữu.
Ông Phạm Thắng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Cát Quế chỉ rõ hiện nay hầu hết các đối tác quốc tế đều yêu cầu chứng nhận bền vững như Rainforest Alliance (RA), 4C hay VietGAP làm giấy thông hành. Đặc biệt quy định EUDR buộc các mặt hàng như cà phê phải chứng minh được nguồn gốc đất đai hợp pháp và hoàn toàn không liên quan đến phá rừng hay suy thoái rừng. Mặc dù lộ trình thực thi có điều chỉnh đến cuối năm 2026 hoặc 2027 nhưng các doanh nghiệp vẫn phải chủ động tuân thủ ngay từ bây giờ để giữ vững uy tín toàn cầu.
Ở góc độ quản lý nhà nước, ông Nguyễn Quang Hiếu, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho rằng nông nghiệp hiện đại không chỉ là câu chuyện về quy mô diện tích mà nằm ở chất lượng tổ chức sản xuất và mức độ tuân thủ các quy định. Tuy nhiên việc xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn vẫn gặp không ít trở ngại khi nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật dẫn đến sản phẩm bị cảnh báo. Tư duy sản xuất cũ thiếu chủ động hoặc cắt giảm quy trình để tiết kiệm chi phí vẫn tồn tại ở một số nơi gây rủi ro cực lớn cho toàn chuỗi giá trị.
Cũng theo ông Nguyễn Quang Hiếu, tình trạng phát triển nóng ở một số ngành hàng như sầu riêng với diện tích đạt khoảng 180.000 ha và sản lượng 1,7 triệu tấn mỗi năm đang tạo ra áp lực khổng lồ cho công tác quản trị chất lượng. Với quy mô lớn như vậy, hầu hết các hộ trồng đều mong muốn đưa sản phẩm đi xuất khẩu, dẫn đến việc nhiều tình huống vi phạm phát sinh do áp lực tuân thủ đầy đủ các quy định kỹ thuật. Đây là bài toán khó khi sản xuất nông nghiệp cần có thời gian để điều chỉnh quy trình và thay đổi tập quán canh tác lâu đời của người dân.
Dưới góc độ doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu, ông Hà Văn Tú, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Biển Xanh nhận định cái khó lớn nhất hiện nay chính là thay đổi tư duy của bà con nông dân. Nhiều hộ vẫn còn hạn chế trong việc tiếp cận các phân khúc thị trường cao cấp, thậm chí có tâm lý e ngại cái mới và cho rằng chỉ cần bán sản phẩm như hiện tại là đủ. Chính tư duy này đã hạn chế khả năng nâng cao giá trị nông sản, trong khi thực tế thị trường như Trung Quốc dù được coi là dễ tính nhưng vẫn có những phân khúc cao cấp đòi hỏi tiêu chuẩn khắt khe.
Ngoài ra, vấn đề quản trị trong các chuỗi liên kết cũng là thách thức mang tính sống còn. Ông Nguyễn Tiến Định, Trưởng phòng Kinh tế hợp tác và Trang trại thẳng thắn nhìn nhận rằng nhiều mô hình liên kết góp vốn bằng quyền sử dụng đất đã thất bại do thiếu tính minh bạch trong quản trị và cơ chế phân phối lợi ích chưa hợp lý. Sự hoài nghi nảy sinh khi lợi nhuận không được chia sẻ công bằng giữa nông dân và doanh nghiệp làm xói mòn lòng tin bền vững. Doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cũng lo ngại tình trạng nông dân đưa hàng ồ ạt ra thị trường khi giá lên cao mà không chú trọng chất lượng.
Giải pháp đồng bộ nâng tầm quản trị chuỗi giá trị nông sản
![]() |
| Thời gian qua, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ địa phương, đồng thời siết chặt công tác quản lý, sử dụng mã số vùng trồng. Ảnh: Ngọc Ánh |
Để tháo gỡ những nút thắt này Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã thực hiện Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông lâm sản đạt chuẩn giai đoạn 2022 – 2025 theo Quyết định 1088. Sau gần 4 năm triển khai 5 vùng nguyên liệu tập trung đã hình thành rõ nét giúp tăng tỷ lệ liên kết tiêu thụ từ 35% lên 65% và giảm đáng kể chi phí vận chuyển nhờ hạ tầng đồng bộ. Ông Nguyễn Tiến Định cho biết kết quả thành công này là tiền đề quan trọng để mở rộng quy mô diện tích vùng nguyên liệu lên gấp 3 đến 4 lần trong giai đoạn 2026 – 2030 so với quy mô thí điểm hiện nay.
Việc thể chế hóa mô hình phát triển vùng nguyên liệu vào Luật Hợp tác xã 2023 và Nghị định 113 đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác hỗ trợ hạ tầng. Giải pháp trọng tâm là tổ chức lại sản xuất gắn với hợp tác xã để thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị từ khâu trồng trọt đến chế biến tiêu thụ. Doanh nghiệp cần đóng vai trò hạt nhân trực tiếp hướng dẫn nông dân thực hiện quy trình canh tác sạch và kiểm soát chất lượng ngay từ gốc. Sự phối hợp giữa doanh nghiệp và chính quyền địa phương là yếu tố then chốt để đảm bảo minh bạch hóa hồ sơ vùng trồng phục vụ xuất khẩu.
Công tác quản lý mã số vùng trồng hiện đã được phân cấp mạnh mẽ cho các địa phương nhằm siết chặt công tác giám sát và thanh tra thực địa. Ông Nguyễn Quang Hiếu khẳng định mã số vùng trồng gắn liền với uy tín và trách nhiệm của cả ngành hàng chứ không đơn thuần là thủ tục hành chính. Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đang đẩy mạnh chuyển đổi số xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ ghi chép và truy xuất nguồn gốc giúp các vùng sản xuất đáp ứng yêu cầu số hóa ngày càng cao. Đối với các mã số bị vi phạm, cơ quan quản lý kiên quyết tạm dừng hoặc thu hồi để giảm thiểu rủi ro xuất khẩu.
Trong bối cảnh sắp xếp lại đơn vị hành chính, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã chủ động làm việc với các nước nhập khẩu để bảo vệ quyền lợi cho các mã số cũ và thực hiện lộ trình chuyển đổi mã số mới một cách nhịp nhàng. Ông Nguyễn Quang Hiếu kỳ vọng năm 2025 kim ngạch sầu riêng sẽ đạt 3,5 tỷ USD nhờ sự cải thiện trong tuân thủ các quy định an toàn thực phẩm. Việc chuyển đổi sang các phương thức quản lý mới sẽ được hỗ trợ tối đa để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tổ chức, cá nhân đã được cấp mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói ổn định sản xuất.
Hệ thống khuyến nông cũng đóng vai trò xúc tác quan trọng thông qua các tổ khuyến nông cộng đồng tại 13 tỉnh thí điểm. Ông Hoàng Văn Hồng, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia chia sẻ mô hình tại Kon Tum đã giúp doanh nghiệp xây dựng 200 ha nguyên liệu cà phê đạt chuẩn, giúp bà con được thu mua sản phẩm với giá cao hơn thông thường. Các dự án khuyến nông tập trung vào việc đưa tiến bộ kỹ thuật giúp nông dân giảm chi phí đầu vào và tiếp cận vật tư chính hãng số lượng lớn. Cán bộ khuyến nông chính là người trực tiếp gắn kết doanh nghiệp với hợp tác xã và người dân.
Để mô hình liên kết góp vốn bằng đất đai bền vững, các bên phải đảm bảo tính công khai minh bạch trong quản lý tài chính và phân chia lợi nhuận xứng đáng. Chỉ khi nông dân thực sự tin tưởng và thấy được lợi ích từ việc tuân thủ quy trình bài bản, họ mới sẵn sàng tự nguyện tham gia vào các chuỗi sản xuất vùng nguyên liệu đạt chuẩn. Sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp, chính quyền và các cơ quan chuyên môn chính là chìa khóa để nông sản Việt Nam vươn xa, khẳng định vị thế và giá trị thương hiệu trên bản đồ nông sản thế giới một cách bền vững nhất.











