![]() |
| Thương hiệu làng nghề chưa được xây dựng đồng bộ, khiến việc quảng bá sản phẩm ra thị trường quốc tế còn hạn chế. |
Thách thức hiện hữu cần vượt qua
Tại hội thảo “Tư vấn hỗ trợ xúc tiến thương mại sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn”, ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam hiện có hơn 5.400 làng nghề truyền thống, trong đó có 168 nghề đặc trưng, cùng nguồn nguyên liệu phong phú và đa dạng sản phẩm. Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu được định giá 1.007 tỷ USD vào năm 2023, dự kiến tăng lên 1.107 tỷ USD vào năm 2024 và đạt 2.394 tỷ USD vào năm 2032.
Doanh thu các làng nghề hiện đạt khoảng 75 nghìn tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng dự kiến 8,7% giai đoạn 2024 - 2032, cho thấy ngành còn nhiều dư địa phát triển. Thủ công mỹ nghệ nằm trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tạo việc làm cho hơn 5 triệu lao động nông thôn và đóng góp đáng kể vào ngoại tệ quốc gia. Đáng chú ý, cứ 1 triệu USD xuất khẩu sản phẩm này mang lại lợi nhuận gấp 5 - 10 lần so với nhiều mặt hàng khác, trong khi nguyên phụ liệu nhập khẩu chỉ chiếm 3 - 3,5% giá trị xuất khẩu.
Tuy nhiên, tiềm năng lớn đi kèm với những thách thức không nhỏ. Theo TS. Tôn Gia Hóa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, gần 50 làng nghề dù đã được công nhận nhưng hiện không còn hoạt động, phản ánh sự mai một đáng lo ngại của nghề truyền thống. Sản xuất vẫn chủ yếu dựa vào hộ gia đình với quy mô nhỏ, tự phát theo vùng, thiếu liên kết theo chuỗi giá trị, gây khó khăn lớn trong việc đáp ứng đơn hàng lớn và duy trì chất lượng theo yêu cầu thị trường quốc tế.
Vấn đề nhân lực cũng là rào cản. Lao động học nghề chủ yếu theo hình thức truyền thống nên thiếu lực lượng thợ được đào tạo bài bản. Thu nhập trung bình của người làm nghề chỉ từ 3,5 đến 4,5 triệu đồng/tháng, trong khi phần lớn chủ cơ sở chưa được đào tạo về quản lý, khiến việc đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trở nên khó khăn. Năng lực thiết kế và đổi mới mẫu mã còn hạn chế; nhiều sản phẩm vẫn mang tính truyền thống, khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế, trong khi tiêu chuẩn quốc tế chưa đồng bộ.
Về nguyên liệu, nguồn tự nhiên đang suy giảm do khai thác thiếu quy hoạch, vùng trồng nguyên liệu bị thu hẹp, hạn chế khả năng mở rộng sản xuất. Ở góc độ thị trường, kênh phân phối và thương mại điện tử chưa được khai thác hiệu quả. Công tác xúc tiến thương mại còn yếu, hội chợ trong nước thiếu định hướng, trong khi hội chợ quốc tế đòi hỏi chi phí cao mà nhiều cơ sở nhỏ khó đáp ứng. Thương hiệu làng nghề chưa được xây dựng đồng bộ, khiến việc quảng bá sản phẩm ra thị trường quốc tế còn hạn chế.
Tại địa phương như Ninh Bình, đại diện Sở Công Thương cho biết tỉnh sở hữu hơn 250 làng nghề truyền thống như đá mỹ nghệ, đúc đồng, thêu ren, dệt thủ công, mây tre đan, gỗ mỹ nghệ. Trong 8 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt 16,33 tỷ USD, phản ánh khả năng hội nhập của doanh nghiệp địa phương. Tuy nhiên, các cơ sở tại đây vẫn hoạt động chủ yếu theo hình thức thủ công, nhỏ lẻ, hạn chế sáng tạo trong thiết kế, chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, thiếu nhân lực chuyên môn và marketing quốc tế chưa hiệu quả, tương tự các khó khăn chung của ngành.
Đồng bộ giải pháp nâng tầm giá trị và thương hiệu
![]() |
| Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nâng tầm sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam. |
Trước những thách thức trên, các đại biểu thống nhất rằng ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang đứng trước thời điểm phát triển bền vững nhờ cơ hội từ các FTA như EVFTA, CPTPP, RCEP, làn sóng chuyển đổi số và sự phục hồi của ngành du lịch. Sản phẩm thủ công Việt Nam hiện đã xuất khẩu tới 163 quốc gia. Để khai thác tối đa tiềm năng và đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 5 tỷ USD vào năm 2025, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp. TS. Nguyễn Thị Thu Hường, Trường Đại học Mở Hà Nội, nhấn mạnh chính sách trong giai đoạn tới cần chuyển từ hỗ trợ bao cấp sang tăng cường năng lực cốt lõi và ứng dụng công nghệ. Trọng tâm là đột phá về thiết kế, nâng cao giá trị gia tăng, triển khai xúc tiến thương mại trên nền tảng số, đồng thời minh bạch hóa thủ tục thuế, hải quan để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi.
Về phát triển chuỗi giá trị và chất lượng, cần xây dựng mô hình liên kết giữa nghệ nhân, hộ sản xuất, doanh nghiệp và nhà thiết kế, đảm bảo đồng bộ từ nguyên liệu, sản xuất đến thương mại. Doanh nghiệp cần chú trọng phát triển sản phẩm xanh, áp dụng truy xuất nguồn gốc và tuân thủ các quy chuẩn quốc tế về môi trường. Bà Hà Thị Vinh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam nhấn mạnh, sự cần thiết của việc chuẩn hóa chất lượng, tăng cường tham gia hội chợ quốc tế, xây dựng bộ nhận diện thương hiệu và thúc đẩy thương mại điện tử xuyên biên giới nhằm nâng cao sức cạnh tranh.
Điển hình là gốm sứ Bát Tràng, với lịch sử hơn 700 năm, hiện hàng trăm cơ sở sản xuất tại làng nghề kết hợp kỹ thuật truyền thống và công nghệ hiện đại, đưa sản phẩm xuất khẩu mạnh sang châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Đông. Tính độc bản của màu men, sự đa dạng về kiểu dáng và chất lượng nguyên liệu giúp Bát Tràng giữ vững vị thế trên thị trường quốc tế. Về xúc tiến thương mại và chuyển đổi số, việc triển khai hiệu quả các hoạt động xúc tiến sẽ giúp làng nghề và doanh nghiệp tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, đồng thời gia tăng giá trị kinh tế bền vững.
Việc đẩy mạnh chuyển đổi số, tham gia sàn thương mại điện tử và xây dựng showroom trực tuyến là hướng đi quan trọng để tiếp cận khách hàng toàn cầu. Công tác đào tạo nhân lực cũng được chú trọng, nhất là kỹ năng thiết kế, quản trị, marketing và hiểu biết về tiêu chuẩn xuất khẩu. Sở Công Thương Ninh Bình khẳng định sẽ tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp thông qua hỗ trợ thủ tục, cung cấp thông tin thị trường, xây dựng thương hiệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Các đại biểu thống nhất rằng thủ công mỹ nghệ không chỉ là ngành sản xuất mà còn là không gian giao thoa giữa văn hóa, sáng tạo và kinh tế.
Để nâng tầm sản phẩm Việt Nam trên bản đồ quốc tế, cần đầu tư đồng bộ vào chất lượng, thiết kế, tiêu chuẩn, marketing và xây dựng thương hiệu quốc gia cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Khi xúc tiến thương mại được đẩy mạnh, chuỗi giá trị hoàn thiện và công nghệ được ứng dụng hiệu quả, ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam sẽ khẳng định giá trị thực sự, cạnh tranh trên thị trường quốc tế và phát triển bền vững trong nền kinh tế số. Việc tạo sự khác biệt, nâng cao đẳng cấp sản phẩm và thể hiện đặc trưng văn hóa khi sản xuất là yếu tố cốt lõi.











