Giá cà phê hôm nay tiếp tục giảm 700 đồng/kg
Giá cà phê hôm nay (26/10), ghi nhận tiếp tục giảm 700 đồng/kg, hiện giao dịch trung bình ở mức 60.000 đồng/kg.
Giá cà phê cao nhất thu mua ở các vùng trọng điểm của Tây Nguyên (Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Nông, Kon Tum) được ghi nhận ở mức 60.200 đồng/kg.
Theo đó, tỉnh Lâm Đồng có giá thấp nhất là 59.400 đồng/kg. Kế đến là tỉnh Gia Lai với 60.100 đồng/kg.
Cùng thời điểm khảo sát, tỉnh Đắk Lắk có giá thu mua là 60.200 đồng/kg.
Đắk Nông ghi nhận mức giao dịch là 60.200 đồng/kg - cao nhất trong các địa phương được khảo sát.
Cập nhật giá cà phê hôm nay. |
Theo ghi nhận, giá cà phê trên thị trường thế giới giảm. Theo đó, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 11/2023 được ghi nhận tại mức 2.467 USD/tấn sau khi giảm 1,04% (tương đương 26 USD).
Giá cà phê arabica giao tháng 12/2023 tại New Italiaork ở mức 162,3 US cent/pound sau khi giảm 3,48% (tương đương 5,85 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h50 (giờ Việt Nam).
Cập nhật giá cà phê Robusta trên sàn London. |
Cập nhật giá cà phê Arabica trên sàn New York. |
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết, 9 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu cà phê sang thị trường Italia đạt 117,85 nghìn tấn, trị giá 262 triệu USD, tăng 6,7% về lượng và tăng 10,8% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính riêng tháng 9/2023, Việt Nam xuất khẩu cà phê sang thị trường Italia giảm mạnh 48,5% về lượng và giảm 45,3% về trị giá so với tháng 8/2023, so với tháng 9/2022 giảm 70,1% về lượng và giảm 63,5% về trị giá.
Tháng 9/2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang thị trường Italia đạt mức 2.523 USD/tấn, tăng 6,2% so với tháng 8/2023 và tăng 22% so với tháng 9/2022. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang Italia đạt mức 2.224 USD/tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
9 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu các chủng loại cà phê Robusta, Arabica và cà phê chế biến sang thị trường Italia. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu cà phê Robusta và cà phê chế biến tăng trưởng khả quan so với cùng kỳ năm ngoái; ngược lại, xuất khẩu cà phê Arabica giảm mạnh.
Tỷ trọng xuất khẩu cà phê Robusta tăng từ 93,32% trong 9 tháng đầu năm 2022 lên 96,29% trong 9 tháng đầu năm 2023; ngược lại, tỷ trọng xuất khẩu cà phê Arabica và chế biến giảm lần lượt từ 5,52% và 1,16% trong 9 tháng đầu năm 2022 xuống 2,56% và 1,15% trong 9 tháng đầu năm 2023.
Đáng chú ý, thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Italia từ thị trường ngoại khối trong 8 tháng đầu năm 2023 tăng.
Theo số liệu thống kê từ Eurostat, 8 tháng đầu năm 2023, Italia nhập khẩu cà phê từ thị trường ngoại khối EU đạt 425,8 nghìn tấn, trị giá xấp xỉ 1,32 triệu EUR (tương đương 1,39 triệu USD), tăng 0,6% về lượng và tăng 1,5% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính riêng tháng 8/2023, Italia nhập khẩu cà phê từ thị trường ngoại khối EU đạt 43,2 nghìn tấn, trị giá 133,77 triệu EUR (tương đương 141,14 triệu USD), giảm 23,3% về lượng và giảm 27,4% về trị giá so với tháng 7/2023, so với tháng 8/2022 tăng 1,9% về lượng, nhưng giảm 9,8% về trị giá.
Theo số liệu của Eurostat, giá nhập khẩu bình quân cà phê của Italia từ thị trường ngoại khối EU trong tháng 8/2023 đạt mức 3.097 EUR/tấn (tương đương 3.268 EUR/tấn), giảm 5,3% so với tháng 7/2023 và giảm 11,4% so với tháng 8/2022.
Tính chung 8 tháng đầu năm 2023, giá nhập khẩu bình quân cà phê của Italia từ thị trường ngoại khối đạt mức 3.098 EUR/tấn (tương đương 3.269 USD/tấn), tăng 0,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, giá nhập khẩu bình quân cà phê của Italia tăng từ nhiều thị trường ngoại khối, ngoại trừ Việt Nam, Tanzania …
8 tháng đầu năm 2023, Italia tăng nhập khẩu cà phê từ Việt Nam và Tanzania, nhưng giảm nhập khẩu từ các thị trường Brazil, Uganda, Ấn Độ…
Theo Eurostat, trong 8 tháng đầu năm 2023, Italia nhập khẩu cà phê từ thị trường Brazil đạt 127,1 nghìn tấn, trị giá 493,9 triệu EUR (tương đương 521,1 triệu USD), giảm 1,8% về lượng, nhưng tăng 2,0% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Thị phần cà phê của Brazil trong tổng lượng nhập khẩu của Italia từ thị trường ngoại khối giảm nhẹ từ 30,57% trong 8 tháng đầu năm 2022 xuống 29,84% trong 8 tháng đầu năm 2023.
Ngược lại, Italia tăng nhập khẩu cà phê từ Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2023, tăng 18,1% về lượng và tăng 14,8% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 113,4 nghìn tấn, trị giá 249 triệu EUR (tương đương 262,8 triệu USD).
Thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Italia từ thị trường ngoại khối tăng từ 22,7% trong 8 tháng đầu năm 2022 lên 26,64% trong 8 tháng đầu năm 2023.
Đáng chú ý, Italia tăng mạnh nhập khẩu cà phê từ Tanzania trong 8 tháng đầu năm 2023, mức tăng 156,8% về lượng và tăng 154,3% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 14,3 nghìn tấn, trị giá 33,2 triệu EUR (tương đương 35 triệu USD).
Thị phần cà phê của Tanzania trong tổng lượng nhập khẩu của Italia từ thị trường ngoại khối tăng từ 1,32% trong 8 tháng đầu năm 2022 lên 3,36% trong 8 tháng đầu năm 2023.
Giá tiêu hôm nay không có điều chỉnh mới
Giá tiêu hôm nay (26/10), được ghi nhận trong khoảng 67.000 - 70.500 đồng/kg tại các tỉnh trọng điểm trong nước.
Hiện tại, mức giá thấp nhất được ghi nhận tại tỉnh Gia Lai với 67.000 đồng/kg.
Tiếp theo đó là Đồng Nai, Đắk Lắk và Đắk Nông với mức giá thu mua chung 68.500 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu lần lượt ổn định tại mức 70.000 đồng/kg và 70.500 đồng/kg.
Cập nhật giá tiêu hôm nay. |
Tính cuối quý III giá tiêu đen trong nước dao động ở mức 69.000 – 72.000 đồng, tăng 1.500 – 2.000 đồng/kg so với thời điểm cuối quý II, nhưng thấp hơn khoảng 6.000 đồng/kg so với mức đỉnh là 74.000 - 77.000 đồng/kg đạt được vào tháng 5 năm nay.
Cập nhập mới nhất đến 18/10, giá tiêu đen tại các tỉnh Tây Nguyên và Nam Bộ đã giảm về mức 67.500 – 71.000 đồng/kg.
Giá tiêu tại thị trường nội địa giảm do nhu cầu nhập khẩu từ các thị trường Mỹ, EU, Trung Quốc đều chậm lại, trong bối cảnh đồng USD và lạm phát cao. Kỳ vọng giá trị đồng USD sẽ tăng nên các nhà nhập khẩu không muốn dự trữ hàng. Do vậy sức mua cầm chừng và chờ đợi những diễn biến mới từ tỷ giá USD.
Bên cạnh đó, cuộc xung đột giữa Israel - Hamas ngày càng trầm trọng đặt ra mối lo ngại đối với nhu cầu chung về hồ tiêu. Tuy nhiên, do lượng tiêu trong dân không còn nhiều nên mức giảm giá không lớn.
Trong quý III năm nay, tổng cộng Việt Nam đã xuất khẩu 53.359 tấn hồ tiêu với trị giá 199,3 triệu USD, tăng 4,7% về lượng nhưng giảm 5,4% so với quý III năm ngoái.
Lũy kế trong 9 tháng đầu năm, xuất khẩu hồ tiêu đạt 206.037 tấn, tăng 18,1% (tương ứng 31.529 tấn) so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, do giá tiêu giảm nên kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 682,5 triệu USD, giảm 11,4% (88 triệu USD) so với cùng kỳ năm 2022.
9 tháng đầu năm, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ để trở thị trường xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất của Việt Nam với khối lượng đạt 55.985 tấn, tăng gấp 4,7 lần so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 27,7% tổng khối lượng hồ tiêu xuất khẩu của nước ta so với mức 6,8% của cùng kỳ.
Nhu cầu hồ tiêu của Trung Quốc tăng cao sau khi nước này dỡ bỏ chính sách “Zero COVID” và mở cửa trở lại từ đầu năm nay. Tuy nhiên, Trung Quốc dường như đã nhập khẩu đủ lượng hàng cần thiết ngay trong nửa đầu năm và bước sang quý III nước này chỉ nhập khẩu 5.161 tấn hồ tiêu, giảm mạnh so với mức 24.450 tấn của quý II và 25.919 tấn trong quý I.
Đứng thứ hai về tiêu thụ hồ tiêu của nước ta trong 9 tháng qua là thị trường Mỹ với khối lượng đạt 38.072 tấn, chiếm 18,5% thị phần, tuy nhiên so cùng kỳ lượng nhập khẩu từ Việt Nam giảm 14%.
Ngoài ra, lượng hồ tiêu xuất khẩu sang nhiều thị trường chính khác cũng giảm trong 9 tháng đầu năm như: Ấn Độ giảm 17%, UAE giảm 25,4%, Đức giảm 16,1%, Hà Lan giảm 19%...
Thị trường hồ tiêu nhiều khả năng sẽ tiếp tục trầm lắng trong những tháng cuối năm khi các nhà nhập khẩu gần như đã mua đủ hàng ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, với việc sản lượng của Việt Nam được dự báo giảm trong năm tới, nhu cầu toàn cầu đối với hồ tiêu có khả năng vượt quá nguồn cung và đẩy giá tăng lên vào năm sau.
Báo cáo mới đây của Nedspice Group và Simexco Daklak đều có chung nhận định sản lượng hồ tiêu của Việt Nam sẽ giảm 15% trong năm 2024. Điều kiện thời tiết trong những tháng tới sẽ ảnh hưởng đáng kể tới năng suất vụ sau.
Theo khảo sát của Simexco Daklak, nguồn cung tiêu tại Việt Nam đang giảm dần do năng suất cây trồng thấp và lợi nhuận giảm. Tồn kho hiện tại ước tính chỉ vào khoảng 15.000 - 20.000 tấn và vụ thu hoạch tiếp theo dự kiến sản lượng chỉ khoảng 140.000 - 150.000 tấn, giảm đáng kể so với năm ngoái.
Nhiều nông dân đã chuyển sang trồng các loại cây trồng khác cho thu nhập thường xuyên và cao hơn, chẳng hạn như sầu riêng. Diện tích còn lại có số lượng lớn cây già cỗi cho năng suất không cao. Ngoài ra, thời tiết mưa nhiều trong vài tuần qua cũng gây ra một số lo ngại về việc kiểm soát thuốc bảo vệ thực vật.