Giá cà phê hôm nay giảm mạnh 1.200 đồng/kg
Giá cà phê hôm nay (18/11), ghi nhận giảm mạnh 1.200 đồng/kg, hiện giao dịch trung bình ở mức 58.500 đồng/kg.
Giá cà phê cao nhất thu mua ở các vùng trọng điểm của Tây Nguyên (Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Nông, Kon Tum) được ghi nhận ở mức 58.800 đồng/kg.
Theo đó, tỉnh Lâm Đồng có giá thấp nhất là 58.100 đồng/kg. Kế đến là tỉnh Gia Lai với 58.500 đồng/kg.
Cùng thời điểm khảo sát, tỉnh Đắk Nông có giá thu mua là 58.500 đồng/kg.
Đắk Lắk ghi nhận mức giao dịch là 58.500 đồng/kg - cao nhất trong các địa phương được khảo sát.
Cập nhật giá cà phê hôm nay. |
Theo ghi nhận, giá cà phê trên thị trường thế giới giảm. Theo đó, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 1/2024 được ghi nhận tại mức 2.521 USD/tấn sau khi giảm 1,75% (tương đương 45 USD).
Giá cà phê arabica giao tháng 12 tại New York ở mức 170,95 US cent/pound sau khi giảm 2,92% (tương đương 5,15 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 7h10 (giờ Việt Nam).
Cập nhật giá cà phê Robusta trên sàn London. |
Cập nhật giá cà phê Arabica trên sàn New York. |
Sang tháng 10, bình quân giá cà phê xuất khẩu 10 tháng đầu năm tăng 10,6% so với cùng kỳ lên 2.535 USD/tấn, giảm sụt nhẹ so với tháng 9 do giá cà phê trong tháng 10 có sự suy giảm. Niên vụ 2022/2023, xuất khẩu cà phê Việt Nam thu về 4,08 tỷ USD, tăng 3,4% so với niên vụ trước nhờ giá tăng cao.
Đáng chú ý, xuất khẩu cà phê Việt Nam có sự chuyển dịch đáng kể. Xét theo từng loại cà phê xuất khẩu, cà phê Robusta chiếm tỷ lệ cao nhất với 1,49 triệu tấn, kim ngạch 3,25 tỷ USD; cà phê nhân Arabica xuất khẩu đạt 41.500 tấn, kim ngạch 169 triệu USD; cà phê nhân đã khử cafein 36.000 tấn, kim ngạch 136 triệu USD.
Đặc biệt, xuất khẩu cà phê chế biến có sự gia tăng đáng kể. Cà phê rang xay và hòa tan xuất khẩu khoảng 90.000 tấn với kim ngạch khoảng 510 triệu USD (khối lượng chiếm khoảng 5,4%, kim ngạch chiếm khoảng 12,5% tổng các loại cà phê xuất khẩu trong niên vụ 2022-2023). Hiện, cà phê Việt Nam đã có mặt ở hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VICOFA), kết thúc niên vụ 2022-2023 (từ tháng 10/2022 đến tháng 9/2023), 10 doanh nghiệp dẫn đầu về khối lượng xuất khẩu cà phê nhân sống là: Intimex HCM, Vĩnh Hiệp, Simexco Daklak, Intimex Mỹ Phước, Louis Dreyfus Việt Nam, NKG Việt Nam, Phúc Sinh, Tuấn Lộc Commodities, Giao dịch Hàng hóa Tây Nguyên và Olam Việt Nam.
Về cà phê rang xay hòa tan thì 10 doanh nghiệp xuất khẩu hàng đầu tính theo kim ngạch có thể kể đến là: Outspan Việt Nam, Cà phê Ngon, Nestlé Việt Nam, Tập đoàn Trung Nguyên, Tata Coffee Việt Nam, URC Việt Nam, Lựa chọn đỉnh, Instanta Việt Nam, Iguacu Việt Nam và Sucafina Việt Nam.
Trên thị trường hàng hoá thế giới, nguồn cung chưa dồi dào của Việt Nam cũng giúp giá cà phê neo ở mức cao. Theo Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV), đóng cửa ngày 16/11, giá hai mặt hàng cà phê diễn biến trái chiều. Cụ thể, giá Robusta tiếp tục tăng, đóng cửa cao hơn mức tham chiếu 0,67%. Đây là giống cà phê chủ lực của Việt Nam, chiếm đến hơn 70% tổng lượng cà phê của cả nước.
Trong khi đó, giá Arabica quay đầu giảm 2,26%. Lượng cà phê chờ phân loại tăng lên trên Sở ICE-US phần nào tạo áp lực lên giá Arabica. Ngược lại, thị trường xuất hiện thông tin mưa làm chậm quá trình thu hoạch cà phê tại Việt Nam, từ đó thúc đẩy lực mua đối với Robusta.
Với 2.865 bao Arabica loại 60kg mới được bổ sung từ Honduras, Burundi và Tanzania trong phiên 15/11, đã đưa tổng số cà phê đang chờ phân loại lên mức 7.265 bao. Điều này giúp tăng thêm cơ sở để dữ liệu tồn kho có thể cải thiện sau đà giảm sâu xuống mức thấp nhất trong hơn 24 năm.
Đồng thời, theo cập nhật mới nhất từ ICE, báo cáo đóng cửa phiên 16/11 cho thấy đã có thêm 285 bao bổ sung từ Kenya, đưa tổng số bao chờ phân loại hiện tại lên 7.550 bao.
Trong khi đó, Reuters Việt Nam cho biết, mưa tại vành đai cà phê của Việt Nam đang khiến quá trình thu hoạch của nông dân bị chậm lại. Đồng thời, lượng còn phê hiện có đang ở mức thấp và mùa vụ mới không có những tín hiệu tích cực. Điều này dấy lên lo ngại về khả năng đảm bảo đủ nguồn cung trên thị trường, từ đó hỗ trợ giá Robusta.
Sáng nay 17/11, trên thị trường nội địa, giá cà phê nhân xô tại Tây Nguyên và các tỉnh Nam Bộ tiếp tục được điều chỉnh tăng khoảng 200 đồng/kg. Theo đó, giá thu mua cà phê tại nhiều địa phương trong nước đã vượt mốc 60.000 đồng/kg, cao hơn 65% so với cuối năm ngoái.
Giá tiêu hôm nay không có thay đổi mới
Giá tiêu hôm nay (18/11), dao động từ 67.500 - 70.500 đồng/kg tùy theo từng địa phương trong nước.
Ghi nhận cho thấy, hai tỉnh Gia Lai và Đồng Nai đang thu mua hồ tiêu với mức giá chung là 67.500 đồng/kg.
Hồ tiêu tại hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông đang được thu mua với mức giá chung là 68.500 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bà Rịa - Vũng Tàu cũng ổn định tại mức 70.500 đồng/kg.
Riêng tỉnh Bình Phước điều chỉnh giá tăng nhẹ 500 đồng/kg lên mức 70.000 đồng/kg.
Cập nhật giá tiêu hôm nay. |
Vụ hồ tiêu năm 2024 sẽ bắt đầu khoảng Tết Nguyên đán tại khu vực Đắk Nông, nơi được coi là vùng trọng điểm nhất của hồ tiêu Việt Nam hiện nay. Tình hình mưa lũ vào tháng 7/2023 được đánh giá ảnh hưởng tới vụ thu hoạch hồ tiêu sắp tới. Tuy nhiên, dự đoán hiện tượng El Nino xảy ra vào cuối năm đang gây ra mối lo ngại cho sản lượng hồ tiêu vụ mới.
Dự kiến 2 tháng cuối năm Việt Nam sẽ xuất khẩu hơn 30 ngàn tấn đưa tổng lượng xuất khẩu cả năm 2023 ước đạt 260 ngàn tấn. Lượng tồn kho 2023 chuyển sang năm 2024 sẽ thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Ghi nhận từ báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong quý III/2023, giá hạt tiêu xuất khẩu biến động tại các nước sản xuất Indonesia và Brazil, trong khi đó tại Việt Nam, giá duy trì ổn định.
Bước sang tháng 10/2023, giá hạt tiêu đen và trắng xuất khẩu giảm tại Indonesia và Brazil, tiếp tục duy trì ổn định tại Việt Nam.
Cụ thể, tại Brazil, ngày 28/10, giá hạt tiêu đen xuất khẩu giảm 50 USD/tấn so với cuối tháng 9/2023, xuống 3.100 USD/tấn.
Song song đó, tại cảng Lampung ASTA của Indonesia, ngày 28/10, giá hạt tiêu đen xuất khẩu giảm mạnh 201 USD/tấn so với cuối tháng 9/2023, xuống còn 4.068 USD/tấn.
Tại cảng Muntok của Indonesia, giá hạt tiêu trắng xuất khẩu giảm 164 USD/tấn so với cuối tháng 9/2023, xuống còn 6.153 USD/tấn.
Đồng thời, tại cảng khu vực Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam, ngày 28/10, giá hạt tiêu đen loại 500g/l và 550g/l xuất khẩu ở mức 3.500 USD/ tấn và 3.600 USD/tấn, ổn định so với cuối tháng 9/2023.
Giá hạt tiêu trắng xuất khẩu ở mức 5.100 USD/tấn, ổn định so với cuối tháng 9/2023.
Dự báo quý IV/2023, thị trường hạt tiêu thế giới chưa thực sự khởi sắc. Nhu cầu tiêu thụ hạt tiêu tại các nền kinh tế lớn như EU, Mỹ, Trung Quốc,… vẫn duy trì ở mức thấp. Bước sang năm 2024, thị trường hạt tiêu thế giới mới có khả năng phục hồi.
Trên thị trường thế giới, kết thúc phiên giao dịch gần nhất, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) niêm yết giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 4.104 USD/tấn, giảm 0,58%; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 3.000 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA giữ mức 4.900 USD/tấn.
Giá tiêu trắng Muntok 6.218 USD/tấn, giảm 0,6%; giá tiêu trắng Malaysia ASTA vẫn ở 7.300 USD/tấn. Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 3.500 USD/tấn với loại 500 g/l, loại 550 g/l mức 3.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 5.100 USD/tấn.