| Ba tháng giảm sâu, giá tôm đã tăng trở lại triển vọng từ nuôi tôm càng xanh chuẩn VietGAP Độc lạ đi câu tôm càng xanh nướng ăn tại hồ, khách ngoại cũng hiếu kỳ tập làm cần thủ | 
![]()  |   		
| Trong 10 tháng đầu năm 2025, tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản của An Giang đạt khoảng 1,25 triệu tấn. | 
Theo TTXVN, hiện nay, tỉnh An Giang có khoảng 107.000 ha sản xuất theo mô hình kết hợp lúa-tôm, tập trung chủ yếu tại vùng U Minh Thượng. Người nông dân đang áp dụng hiệu quả mô hình nuôi xen canh các loại thủy sản có giá trị như tôm càng xanh, tôm sú, tôm thẻ và cua biển, kết hợp với sản xuất một vụ lúa mỗi năm.
Theo báo cáo từ Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, tình hình nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh từ đầu năm 2025 đến nay diễn ra ổn định, ít xảy ra dịch bệnh. Tỉnh đã chủ động thực hiện các loại hình nuôi khác nhau, phù hợp với từng vùng sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ để gia tăng năng suất.
Trong 10 tháng đầu năm 2025, tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản của An Giang đạt khoảng 1,25 triệu tấn. Dự kiến cả năm 2025, con số này sẽ đạt hơn 1,6 triệu tấn. Riêng tôm nước lợ ước đạt hơn 155 nghìn tấn. Dù sản lượng cao và ổn định, nhưng nghịch lý "được mùa, mất giá" vẫn đang là bài toán nan giải.
Nỗi lo 'được mùa, rớt giá' và điệp khúc thương lái ép giá
Vĩnh Bình là một trong những xã có diện tích nuôi xen canh thủy sản lớn của tỉnh An Giang, với hơn 12.200 ha mỗi năm. Tổng sản lượng thủy sản của xã đạt hơn 85.500 tấn, trong đó sản lượng tôm nuôi chiếm hơn 61.000 tấn.
Nông dân tại đây chủ yếu áp dụng quy trình sản xuất hữu cơ, an toàn sinh học với 3 vụ tôm càng xanh xen canh tôm sú, tôm thẻ, cua biển theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp. Người nuôi tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên như lúa, ốc, cá mồi, chỉ cho ăn dặm thêm một ít thức ăn công nghiệp. Họ cũng sử dụng men vi sinh để cải tạo môi trường nước và hoàn toàn không dùng thuốc hóa học, giúp tôm có chất lượng thịt ngọt, thơm ngon.
Gia đình bà Huỳnh Thị Hằng (ấp Nước Chảy, xã Vĩnh Bình) là một điển hình. Bà cho biết đã gắn bó hơn 15 năm với 2 ha đất nuôi tôm càng xanh xen canh tôm thẻ và tôm sú. Mô hình này đã giúp gia đình bà ổn định cuộc sống, nuôi 3 người con ăn học thành tài và có việc làm ổn định.
Tuy nhiên, bà Hằng cũng trăn trở về thực trạng giá cả bấp bênh của tôm càng xanh trong nhiều năm qua. "Riêng về tôm sú và tôm thẻ giá tương đối ổn định, còn tôm càng xanh thường bị rớt giá, hoàn toàn do thương lái quyết định với mức giá khá thấp," bà Hằng chia sẻ.
Theo bà, tôm oxy (thu hoạch chạy oxy bán sống) giá chỉ từ 100.000 đến 120.000 đồng/kg, còn tôm ngộp giá chỉ 50.000 - 60.000 đồng/kg. Mỗi năm, gia đình bà thu hoạch khoảng 2 tấn tôm càng xanh, hơn 500kg tôm thẻ và tôm sú, tổng thu nhập hơn 250 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận còn lại khoảng 150 triệu đồng.
"Nguồn thu này khó có thể giúp gia đình có dư để tích góp, vươn lên khá giả mà chỉ đủ sống," bà Hằng nói. "Tôi mong sắp tới ngành chức năng và chính quyền địa phương quan tâm, có giải pháp mời gọi doanh nghiệp đến bao tiêu đầu ra cho tôm thương phẩm ở cuối vụ với mức giá khoảng 130.000 đồng/kg. Được như thế người nuôi mới yên tâm sản xuất và mới có thể vươn lên khá giàu".
Cùng chung nỗi niềm, ông Nguyễn Văn Minh (xã Vĩnh Bình) cho biết gia đình ông vừa thu hoạch 2,2 ha, sản lượng đạt 1 tấn tôm càng xanh, 400kg tôm thẻ và 200kg tôm sú. Tôm càng xanh (loại oxy) ông bán chỉ được giá 118.000 đồng/kg, tôm ngộp giá 55.000 đồng/kg. Mức giá này đã giảm hơn 22.000 đồng/kg so với những tháng đầu năm 2025.
Lý giải nguyên nhân, ông Minh cho rằng do vào mùa thu hoạch rộ, sản lượng nhiều nên thương lái ép giá nông dân. "Tôm càng xanh tới lứa thu hoạch không thể để lâu, vì vậy, thương lái thường ép giá. Dẫu biết là vậy nhưng nông dân không thể không bán, vì hầu hết các thương lái ở địa phương đều là người nhà, hoặc họ đã thống nhất với nhau, thế là nông dân là người chịu thiệt", ông Minh bức xúc.
Ông cũng bày tỏ mong muốn địa phương sớm thành lập hợp tác xã và thực hiện liên kết trong cung ứng tôm giống, thức ăn, gắn với bao tiêu đầu ra ở một mức giá ổn định.
Tổ chức lại sản xuất, xây dựng chuỗi liên kết để nâng cao giá trị
![]()  |   		
| Người dân thu hoạch tôm. | 
Trước thực trạng đầu ra thiếu ổn định, chính quyền địa phương và ngành nông nghiệp tỉnh An Giang đang nỗ lực tìm kiếm giải pháp bền vững.
Ông Võ Thanh Xuân, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Vĩnh Bình, thừa nhận mặc dù xã đã quan tâm xây dựng thương hiệu "tôm càng xanh sạch" nhưng giá cả vẫn lên xuống thất thường.
Để giúp mô hình lúa-tôm phát triển ổn định và nâng cao đời sống người dân, ông Xuân cho biết xã đang tập trung chỉ đạo thành lập các hợp tác xã. Đặc biệt, tuyến ven sông Cái Lớn đang trong quá trình hoàn thiện, mở ra triển vọng cho việc vận chuyển hàng hóa, nông thủy sản thuận lợi hơn.
"Cùng với đó, xã phối hợp với các trường đại học, viện nghiên cứu để ứng dụng, chuyển giao khoa học kỹ thuật giúp tôm càng xanh đạt chất lượng, an toàn thực phẩm; phối hợp với các ngành của tỉnh tìm kiếm, mời gọi doanh nghiệp có năng lực đầu tư thu mua, chế biến để nâng cao giá trị tôm nuôi", ông Xuân thông tin thêm.
Ở tầm nhìn vĩ mô, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, ông Lê Hữu Toàn, cho biết tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ ổn định diện tích sản xuất lúa-tôm ở mức hơn 117 nghìn ha.
Để nghề nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả bền vững, ông Toàn nhấn mạnh giải pháp trọng tâm là tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ con giống, vật tư đầu vào, nuôi thương phẩm đến chế biến và tiêu thụ. Ngành sẽ thúc đẩy liên kết sản xuất thông qua các hợp tác xã và doanh nghiệp trong việc cung cấp vật tư và bao tiêu sản phẩm, đảm bảo lợi nhuận cho nông dân.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh sẽ tập trung vào các giải pháp đồng bộ khác, bao gồm:
Đẩy mạnh sản xuất và ương dưỡng giống thủy sản tại tỉnh, từng bước chủ động nguồn cung và nâng cao chất lượng con giống.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm dịch giống và giám sát chủ động dịch bệnh, kịp thời hướng dẫn người dân các biện pháp phòng trị.
Triển khai, ứng dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, giảm thiểu chất thải theo mô hình kinh tế tuần hoàn.
Tập trung xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm và chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm tôm đặc trưng của từng vùng để hướng đến xuất khẩu, qua đó nâng cao giá trị sản phẩm và thu nhập cho nông dân.


									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
									
			
			
			
			
			