Giá cà phê hôm nay tăng mạnh 1.700 đồng/kg
Giá cà phê hôm nay (16/11), ghi nhận tăng mạnh 1.700 đồng/kg, hiện giao dịch trung bình ở mức 58.300 đồng/kg.
Giá cà phê cao nhất thu mua ở các vùng trọng điểm của Tây Nguyên (Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Nông, Kon Tum) được ghi nhận ở mức 60.900 đồng/kg.
Theo đó, tỉnh Lâm Đồng có giá thấp nhất là 60.000 đồng/kg. Kế đến là tỉnh Gia Lai với 60.700 đồng/kg.
Cùng thời điểm khảo sát, tỉnh Đắk Nông có giá thu mua là 60.800 đồng/kg.
Đắk Lắk ghi nhận mức giao dịch là 60.900 đồng/kg - cao nhất trong các địa phương được khảo sát.
Cập nhật giá cà phê hôm nay. |
Theo ghi nhận, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng. Theo đó, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 1/2024 được ghi nhận tại mức 2.549 USD/tấn sau khi tăng 3,03% (tương đương 75 USD).
Giá cà phê arabica giao tháng 12 tại New York ở mức 180,80 US cent/pound sau khi tăng 2,47% (tương đương 4,35 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 7h00 (giờ Việt Nam).
Cập nhật giá cà phê Robusta trên sàn London. |
Cập nhật giá cà phê Arabica trên sàn New York. |
Những ngày đầu tháng 11, giá cà phê robusta và arabica tăng so với cuối tháng 10 do lo ngại thiếu hụt nguồn cung và báo cáo tồn kho tiếp tục giảm, theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất - Nhập khẩu (Bộ Công Thương).
Trên sàn giao dịch London, ngày 9/11, giá cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 1/2024, tháng 3/2024 và tháng 5/2024 tăng lần lượt 2,2%, 0,9% và 0,7% so với cuối tháng 10/2023, lên mức 2.406 USD/tấn; 2.360 USD/tấn và 2.339 USD/tấn.
Trên sàn giao dịch New York, ngày 9/11/2023, giá cà phê arabica giao kỳ hạn tháng 12/2023, tháng 3/2024, tháng 5/2024 và tháng 7/2024 tăng lần lượt 8,3%, 7,2%, 6,9% và 6,7% so với cuối tháng 10/2023, lên mức 174,35 US cent/lb; 172,1 US cent/lb; 172,2 US cent/lb và 172,85 US cent/lb.
Trên sàn giao dịch BMF của Brazil, ngày 9/11/2023, giá cà phê arabica giao kỳ tháng 12/2023, tháng 3/2024, tháng 5/2024 và tháng 9/2024 tăng lần lượt 7,9%, 7,2%, 7,4% và 6,8% so với cuối tháng 10/2023, lên mức 209,45 US cent/lb; 209,1 US cent/lb; 212,2 US cent/lb và 206 US cent/lb.
ự báo giá cà phê robusta sẽ tăng do nguồn cung khan hiếm, nhu cầu tăng dịp cuối năm. Báo cáo từ cảng Santos (Brazil) cho thấy lượng hàng xuất khẩu trong tháng 9/2023 chỉ đạt 76% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường lo ngại sự chậm trễ này có thể kéo dài tới tới cuối năm nay, buộc các nhà rang xay phải tăng mua hàng có sẵn trên cả hai sàn.
Còn theo số liệu công bố mới nhất từ Tổng cục Hải quan Việt Nam, lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt mức thấp kỷ lục trong tháng 10. Điều này cho thấy lượng hàng gối vụ của Việt Nam dường như còn không đáng kể.
Giá tiêu hôm nay không điều chỉnh mới
Giá tiêu hôm nay (16/11), tại thị trường nội địa tăng từ 500 đồng/kg đến 1.000 đồng/kg lên khoảng 67.500 - 70.500 đồng/kg.
Cụ thể, Gia Lai và Đồng Nai lần lượt tăng 1.000 đồng/kg và 500 đồng/kg lên cùng mức là 67.500 đồng/kg.
Song song đó, hai tỉnh tại Đắk Lắk và Đắk Nông cũng điều chỉnh giá cùng tăng 1.000 đồng/kg, hiện đang thu mua hồ tiêu với mức giá là 68.500 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu hiện được ghi nhận tại mức tương ứng là 69.500 đồng/kg và 70.500 đồng/kg, cùng tăng 500 đồng/kg.
Cập nhật giá tiêu hôm nay. |
Nhận định về thị trường tuần trước, Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA) cho hay, sau 3 tuần ghi nhận chiều hướng tiêu cực, thị trường cho thấy phản ứng trái chiều.
Theo đó, giá tiêu Ấn Độ tiếp tục ghi nhận giảm. Sau 3 tuần ghi nhận ổn định, giá tiêu nội địa Sri Lanka giảm trong tuần trước.
Tại Đông Nam Á, sau 2 tuần ghi nhận giảm, cả giá tiêu giao dịch nội địa và quốc tế của Indonesia ghi nhận tăng trong tuần trước do ảnh hưởng từ việc đồng Rupiah Indonesia tăng 1% so với USD (15,623 IDR/USD).
Trong bối cảnh đồng Ringgit Malaysia tăng 1% so với USD (4.68 MYR/USD), giá tiêu nội địa Malaysia ghi nhận tăng trong tuần trước. Còn giá xuất khẩu tiêu Malaysia duy trì ổn định và không thay đổi.
Tại Việt Nam chỉ có giá tiêu đen nội địa Việt Nam ghi nhận tăng. Trong khi đó, các loại khác duy trì ổn định và không thay đổi.
Ghi nhận từ báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), quý III/2023 so với quý II/2023, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang tất cả các khu vực giảm. Mức giảm thấp nhất 9,5% tại châu Âu; mức giảm cao nhất 38,3% tại châu Đại Dương.
Trong khi đó, so với quý III/2022, xuất khẩu hạt tiêu quý III/2023 của Việt Nam sang hầu hết các khu vực giảm, ngoại trừ châu Á tăng 24,4%.
Cũng trong giai đoạn này, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang nhiều thị trường giảm so với quý II/2023, nhưng sang các thị trường Ấn Độ, Hàn Quốc, Nga… tăng.
So với quý III/2022, xuất khẩu hạt tiêu sang các thị trường Mỹ, Hà Lan, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) giảm; ngược lại, xuất khẩu sang Trung Quốc, Ấn Độ, Đức, Hàn Quốc, Nga tăng mạnh.
Ngoài ra, xuất khẩu hầu hết các chủng loại hạt tiêu giảm, ngoại trừ hạt tiêu trắng xay tăng 11,1%. So với quý III/2022, xuất khẩu hầu hết các chủng loại hạt tiêu giảm, ngoại trừ hạt tiêu trắng tăng 9,5%.
Số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan cho thấy, xuất khẩu tiêu của Việt Nam trong tháng 10/2023 đã tăng trở lại, đạt 19.401 tấn, tăng 7,1% so với tháng 9 và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2022. Kim ngạch đạt 73,18 triệu USD, tăng 8,4% so với tháng 9 và tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2022.
Lũy kế 10 tháng năm 2023, xuất khẩu tiêu đạt 225.438 tấn, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2022; kim ngạch đạt 755,63 triệu USD, giảm 9,7%.
Giá tiêu xuất khẩu trung bình trong tháng 10/2023 tăng trở lại, đạt 3.772 USD/tấn, tăng 1,2% so với tháng 9/2023, nhưng vẫn giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2022. Lũy kế 10 tháng năm 2023, giá tiêu xuất khẩu trung bình đạt 3.352 USD/tấn, giảm 23,1% so với cùng kỳ năm 2022.