Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm trùng - nhiễm độc, lây theo đường hô hấp và có khả năng gây dịch, do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae (còn gọi là trực khuẩn Klebs-Leoffler) gây nên. Bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi và ở đối tượng chưa có miễn dịch với bệnh bạch hầu do chưa được tiêm vắc xin đầy đủ. Vi khuẩn thường khu trú và làm thương tổn đường hô hấp trên (mũi, họng, thanh quản) tạo giả mạc dai dính, khó bóc tách và sinh ra ngoại độc tố gây nhiễm độc toàn thân (tim, thận, thần kinh), nguy cơ tử vong cao do tắc đường thở và viêm cơ tim. Bệnh có thuốc điều trị đặc hiệu bằng kháng sinh và kháng độc tố bạch hầu (SAD) và có thể dự phòng bằng vắc xin.
Bộ Y tế ban hành Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh bạch hầu (Ảnh minh họa)
Vi khuẩn bạch hầu là cầu trực khuẩn gram (+), hình chùy dài 1-9 µm, rộng 0,3-0,8 µm, không di động, không có vỏ, không tạo nha bào. Trực khuẩn bạch hầu sống lâu ở giả mạc và họng của bệnh nhân. Trong điều kiện thiếu ánh sáng, vi khuẩn sống tới 6 tháng và tồn tại lâu trên các đồ chơi của trẻ bị bạch hầu, áo choàng của nhân viên y tế… Vi khuẩn bạch hầu chết ở nhiệt độ 580C trong vòng 10 phút, dưới ánh sáng mặt trời vi khuẩn chết trong vài giờ.
Về lâm sàng hay gặp nhất là bạch hầu họng, chiếm tới 70%, bạch hầu thanh quản là 20-30%, bạch hầu mũi là 4%, bạch hầu mắt từ 3-8%, bạch hầu da…
Về bệnh hầu họng có thời gian ủ bệnh từ 2-5 ngày, không có triệu chứng lâm sàng. Thời kỳ khởi phát, người bệnh thường sốt 37,5-380C, đau họng, khó chịu, mệt, ăn kém, da hơi xanh, sổ mũi một bên hoặc 2 bên có thể lẫn máu. Khi khám họng thấy hơi đỏ, amidan có điểm trắng mờ dạng giả mạc ở một bên; sờ thấy hạch cổ nhỏ, di động, không đau. Vào ngày thứ 2-3 của bệnh là thời kỳ toàn phát, người bệnh sốt từ 38-38,50C, nuốt đau, da xanh tái, mệt nhiều, chán ăn, mạch nhanh, huyết áp hơi hạ. Khám họng có giả mạc lan tràn ở một bên hoặc 2 bên amidan; trường hợp nặng giả mạc lan trùm lưỡi gà và màn hầu. Giả mạc lúc đầu trắng ngà, sau ngả màu hơi vàng nhạt, dính chặt vào niêm mạc, bóc tách gây chảy máu, nếu bóc tách thì vài giờ sau mọc lại rất nhanh; giả mạc dai, không tan trong nước, niêm mạc quanh giả mạc bình thường. Hạch góc hàm sưng đau; bệnh nhân sổ mũi nhiều, nước mũi trắng hoặc lẫn mủ.
Bạch hầu ác tính có thể xuất hiện sớm, từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 của bệnh. Bệnh cảnh nhiễm trùng nhiễm độc nặng, sốt cao 39-400C, giả mạc lan rộng, khắp hầu họng và môi. Hạch cổ sưng to biến dạng dẫn đến hình cổ bạnh, có nhiều biến chứng sớm viêm cơ tim, suy thận và tổn thương thần kinh.
Về bạch hầu thanh quản thì ít gặp bạch hầu thanh quản đơn thuần, thường là bạch hầu họng - thanh quản. Bệnh cảnh lâm sàng bao gồm: viêm thanh quản cấp (ho ông ổng, khàn tiếng, khó thở chậm thì hít vào, có tiếng rít thanh quản) giai đoạn muộn sẽ dẫn đến ngạt thở.
Bộ Y tế cũng hướng dẫn cụ thể về xác định căn nguyên; các xét nghiệm thường quy và theo dõi. Cách chẩn đoán: ca bệnh nghi ngờ, chẩn đoán xác định, chẩn đoán phân biệt và các biện pháp điều trị cụ thể.
Về phòng bệnh, trong hướng dẫn của Bộ Y tế nêu rõ, tất cả người bệnh nghi bạch hầu phải được vào viện để cách ly cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn hai lần âm tính. Mỗi mẫu bệnh phẩm được lấy cách nhau 24 giờ và không quá 24 giờ sau khi điều trị kháng sinh. Nếu không có điều kiện làm xét nghiệm thì phải cách ly bệnh nhân sau 14 ngày điều trị kháng sinh.
Thực hiện rửa tay đúng cách bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn. Nhà ở của người bệnh, dụng cụ trong phòng, đồ dùng, quần áo của người bệnh phải tẩy uế và sát khuẩn.
Phòng bệnh bằng vắc xin bạch hầu: dùng vắc xin đa giá bạch hầu - ho gà - uốn ván cho trẻ. Bắt đầu tiêm từ 2-3 tháng tuổi, tiêm 2 lần, mỗi lần 1ml cách nhau 1 tháng. Một năm sau nhắc lại, mỗi năm 1 lần cho đến 5 tuổi. Với người tiếp xúc cần xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong vòng 7 ngày.
Yên Thư