| Lời tòa soạn: Nông nghiệp từ lâu đã là trụ cột của nền kinh tế, nuôi sống hàng triệu người dân Việt Nam. Nhưng trước sức ép của biến đổi khí hậu, thiên tai ngày càng trở thành thách thức thường trực, đẩy người nông dân vào cảnh “trắng tay” sau mỗi trận bão, mỗi đợt hạn hán. Trong bối cảnh đó, bảo hiểm nông nghiệp được kỳ vọng là “tấm khiên” vững chắc, bảo vệ tài sản và sinh kế cho nhà nông. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chính sách này vẫn chưa phát huy đầy đủ vai trò. Rào cản về pháp lý, thủ tục còn phức tạp, trong khi sự e dè, thiếu niềm tin và thu nhập bấp bênh khiến nhiều nông dân chưa mạnh dạn tham gia. Bài viết này đi sâu phân tích thực trạng, chỉ ra những điểm nghẽn và gợi mở giải pháp để bảo hiểm nông nghiệp thực sự trở thành thiết chế an sinh xã hội quan trọng, thay vì chỉ là một công cụ tài chính đơn thuần. |
Doanh nghiệp gồng mình trước thiên tai
Theo chia sẻ của Bà Lý Thị Hà - Chủ tich hội đồng quảng trị, Hợp tác xã Rau củ quả an toàn Văn Giang, xã Văn Giang, tỉnh Hưng Yên cho biết. Các đợt thiên tai gần đây đã tác động trực tiếp đến sản xuất và chuỗi cung ứng. Nhiều vùng nguyên liệu bị mất mùa, sản lượng giảm 20–30%, buộc doanh nghiệp phải tìm nguồn thay thế với chi phí cao hơn. Hệ thống kho bãi, máy móc bảo quản bị hư hỏng do mưa lũ, dẫn đến gián đoạn đơn hàng và ảnh hưởng đến uy tín đối tác.
![]() |
| Vùng trồng của Hợp tác xã Rau củ quả an toàn Văn Giang bị ảnh hưởng thiên tai (ảnh: Đơn vị cung cấp) |
Ngoài ra, đứt gãy chuỗi vận chuyển khiến chi phí đầu vào tăng, trong khi sức mua thị trường giảm, làm lợi nhuận sụt giảm nghiêm trọng. Trước tình hình đó, doanh nghiệp đã buộc phải rà soát lại chiến lược phát triển, tập trung vào yếu tố an toàn – bền vững thay vì chỉ chú trọng tăng trưởng.
Doanh nghiệp cũng nhìn nhận, mặc dù bảo hiểm nông nghiệp là công cụ tài chính hữu ích, song cũng nhiều hạn chế khiến nông dân và HTX chưa mạnh dạn tham gia: phí bảo hiểm cao, thủ tục phức tạp, định giá thiệt hại thiếu minh bạch và chậm trễ trong bồi thường. Điều này làm giảm niềm tin của người dân và doanh nghiệp, khiến bảo hiểm chưa thực sự trở thành “điểm tựa” khi gặp rủi ro.
Chính quyền địa phương nỗ lực nhưng còn vướng mắc
Tại tỉnh Ninh Bình, chính quyền địa phương đã ban hành nhiều chương trình, chính sách nhằm thúc đẩy bảo hiểm nông nghiệp như: ban hành cơ chế hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp cho cây lúa theo Quyết định 13/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành hướng dẫn quy trình canh tác lúa nước cho các hộ nông dân trên địa bàn được bảo hiểm vv... Công tác tuyên truyền được triển khai trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình và cổng thông tin điện tử.
![]() |
| Chính quyền địa phương |
Tuy nhiên, việc triển khai cũng gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất, nhận thức và sự tham gia của người dân còn hạn chế, do sản xuất nhỏ lẻ, tâm lý quen tự gánh chịu rủi ro, ít tin tưởng vào cơ chế bảo hiểm. Thứ hai, diện tích canh tác manh mún khiến chi phí quản lý bảo hiểm cao, trong khi sản phẩm bảo hiểm chưa đa dạng, chủ yếu tập trung vào lúa và chăn nuôi chính, các loại cây trồng đặc sản, thủy sản quy mô nhỏ hầu như chưa có gói bảo hiểm phù hợp; mặt khác bảo hiểm nông nghiệp có độ rủi ro cao, lợi nhuận thấp nên doanh nghiệp bảo hiểm e ngại khi triển khai; cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nông dân còn thiếu, làm giảm tính hấp dẫn của chính sách.
Hướng đi nào để bảo hiểm nông nghiệp bền vững?
Để bảo hiểm nông nghiệp thực sự trở thành “lá chắn” bảo vệ nông dân và doanh nghiệp, cả hai phía, cơ sở sản xuất và cơ quan quản lý đều đưa ra những đề xuất cụ thể.
Về phía Doanh nghiệp, mong muốn các công ty bảo hiểm thiết kế sản phẩm linh hoạt, dễ hiểu, phù hợp với đặc thù từng vùng, từng loại cây – con giống, đồng thời ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn và AI để giám định rủi ro, minh bạch quy trình bồi thường. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ phí mạnh mẽ hơn, đặc biệt cho nông hộ yếu thế và HTX nhỏ.
![]() |
| Mô hình trồng rau trong nhà kính |
Về phía địa phương, chính quyền kiến nghị Trung ương sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định 58/2018/NĐ-CP, mở rộng phạm vi và đối tượng được hỗ trợ, tăng mức ngân sách trợ phí bảo hiểm. Đồng thời, các công ty bảo hiểm cần phát triển sản phẩm sát thực tế hơn. ví dụ ở vùng hay bị ngập úng, vùng chăn nuôi tập trung, thì thủ tục tham gia và bồi thường cần đơn giản, minh bạch.
Có thể thấy, bảo hiểm nông nghiệp là giải pháp quan trọng giúp chia sẻ rủi ro, bảo vệ sinh kế của người nông dân và sự ổn định của doanh nghiệp nông nghiệp. Tuy nhiên, để “lá chắn tài chính” này phát huy hiệu quả, cần sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm và chính người dân. Khi chính sách đủ linh hoạt, minh bạch và sát thực tiễn, bảo hiểm nông nghiệp mới thực sự trở thành điểm tựa vững chắc trước biến đổi khí hậu và thiên tai ngày càng khốc liệt.












