Diễn đàn được tổ chức bởi Tạp chí Thương hiệu và Sản phẩm, phối hợp với Công ty Cổ phần Phát triển Báo Sáng và các đơn vị liên quan, dưới sự chỉ đạo và bảo trợ của Hội Khoa học các sản phẩm thiên nhiên Việt Nam cùng Hiệp hội Chống hàng giả và Bảo vệ thương hiệu Việt Nam. Sự kiện còn mang ý nghĩa đặc biệt khi diễn ra nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Tạp chí Thương hiệu và Sản phẩm (25/9/2005 – 25/9/2025).
Phát biểu khai mạc, Nhà báo Nguyễn Viết Hưng – Tổng Biên tập Tạp chí Thương hiệu và Sản phẩm, Trưởng ban tổ chức, nhấn mạnh: “Diễn đàn được tổ chức trong bối cảnh cả nước đang triển khai mạnh mẽ Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Thông qua diễn đàn, Ban Tổ chức mong muốn kiến tạo một sân chơi trí tuệ, một cầu nối hợp tác giữa Nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp, nhằm cùng nhau thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuẩn hóa sản phẩm thiên nhiên, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của thương hiệu Việt”.
![]() |
Nhà báo Nguyễn Viết Hưng – Tổng Biên tập Tạp chí Thương hiệu và Sản phẩm, Trưởng ban tổ chức phát biểu khai mạc Diễn đàn. |
![]() |
Diễn đàn quy tụ gần 300 đại biểu là các nhà quản lý, nhà khoa học, lãnh đạo các hội, hiệp hội và cac CEO doanh nghiệp. |
Từ định hướng chính sách đến yêu cầu cấp thiết của thị trường
Diễn đàn đã phác họa một bức tranh toàn cảnh về ngành sản phẩm thiên nhiên Việt Nam, nơi các định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước giao thoa với những yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường. Các nghị quyết trụ cột như Nghị quyết 57 và 68 được xác định là kim chỉ nam, mở ra cơ hội nhưng cũng đặt ra yêu cầu mới cho cả cộng đồng doanh nghiệp và giới khoa học.
![]() |
Các đại biểu, diễn giả và Ban Tổ chức trước giờ khai mạc. |
Theo PGS.TS Hoàng Hữu Hạnh – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Khoa học và Công nghệ), để phát triển đột phá giá trị sản phẩm thiên nhiên, cần tập trung đồng bộ vào bốn yếu tố cốt lõi. Thứ nhất, phải ứng dụng khoa học công nghệ sâu vào nghiên cứu hoạt chất và quy trình chiết xuất để chuẩn hóa sản phẩm. Thứ hai, cần đổi mới công nghệ, đầu tư vào chế biến sâu và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Thứ ba, phải thực hiện chuyển đổi số toàn bộ chuỗi giá trị từ nguyên liệu đến phân phối để đảm bảo truy xuất nguồn gốc. Cuối cùng, cần xây dựng thương hiệu mạnh và sử dụng các nền tảng số để tiếp cận thị trường toàn cầu.
![]() |
PGS.TS Hoàng Hữu Hạnh – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Khoa học và Công nghệ) trình bày tham luận. |
Những định hướng này hoàn toàn tương thích với xu thế của thị trường. GS.TS. Trần Thị Thu Hà – Viện trưởng Viện Lâm nghiệp và Phát triển bền vững, cho biết thị trường sản phẩm thiên nhiên Việt Nam có quy mô khoảng 5 tỷ USD/năm với tốc độ tăng trưởng 8–10%. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu dược liệu của Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 500 triệu USD, một con số quá khiêm tốn so với Trung Quốc (hơn 40 tỷ USD) hay Thái Lan (hơn 3 tỷ USD). Trong khi đó, nhu cầu tiêu dùng xanh và ưa chuộng các sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên đang tăng mạnh trên toàn cầu.
![]() |
GS.TS. Trần Thị Thu Hà – Viện trưởng Viện Lâm nghiệp và Phát triển bền vững chia sẻ tham luận. |
Ông La Văn Toàn – Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ An toàn thực phẩm cũng chỉ ra rằng, người tiêu dùng hiện nay không chỉ quan tâm đến giá cả mà còn đặt nặng tiêu chí an toàn, nguồn gốc minh bạch, thân thiện với môi trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Đây chính là cơ hội lớn nhưng cũng là thách thức đòi hỏi sự thay đổi toàn diện từ tư duy sản xuất đến quản trị thương hiệu.
Chuẩn hóa và minh bạch - "Chìa khóa vàng" để nâng cao giá trị và chống hàng giả
Để biến tiềm năng thành giá trị thực tế, các chuyên gia tại diễn đàn đều đồng tình rằng "chuẩn hóa" và "minh bạch" là hai chìa khóa quan trọng nhất. Đây không chỉ là con đường để nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn là vũ khí hữu hiệu trong cuộc chiến chống hàng giả, hàng nhái đang làm xói mòn lòng tin người tiêu dùng.
GS.TS Trần Thị Thu Hà đã đề xuất một lộ trình chuẩn hóa toàn diện, bắt đầu từ nguyên liệu phải đạt chuẩn GACP-WHO, chế biến theo GMP-WHO, ISO 22000, và phân tích tại các phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO 17025. Để minh bạch hóa thông tin, bà gợi ý áp dụng các giải pháp công nghệ như giấy chứng nhận phân tích điện tử (e-CoA) gắn mã QR, ứng dụng blockchain trong truy xuất nguồn gốc và liên thông dữ liệu quốc gia. Trả lời câu hỏi của một doanh nghiệp về quy trình chuẩn hóa cây đương quy, bà giải thích cặn kẽ rằng đó là một chuỗi liên hoàn: "phải xác định đúng giống", "chọn vùng trồng phù hợp", "tuân thủ quy trình chăm sóc theo tiêu chuẩn GACP", "thu hái đúng thời điểm để hoạt chất đạt cao nhất" và "chế biến đúng cách". Nếu một mắt xích trong chuỗi này không tốt, "nó lại cũng là hỏng hết cả một cái chuỗi".
Song song với việc xây dựng chất lượng, cuộc chiến chống hàng giả cũng được đặc biệt nhấn mạnh. Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Hương Giang – Tổng thư ký Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ thương hiệu Việt Nam, vấn nạn hàng giả là một vấn đề mang tính hệ thống, gây tổn hại đa chiều đến người tiêu dùng, doanh nghiệp chân chính và nền kinh tế. Đặc biệt, lĩnh vực sản phẩm thiên nhiên đang trở thành mục tiêu lý tưởng cho các hành vi gian lận.
![]() |
Thạc sĩ Nguyễn Thị Hương Giang – Tổng thư ký Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ thương hiệu Việt Nam |
Trước bối cảnh đó, các sáng kiến xây dựng tiêu chuẩn từ cộng đồng khoa học được xem là giải pháp nền tảng. Viện Khoa học Công nghệ An toàn thực phẩm (Viện IFT) đã xây dựng Chuẩn mực "Sản phẩm thiên nhiên xanh và Nguồn gốc thiên nhiên xanh", tập trung vào khía cạnh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và tiếp cận các chuẩn mực ESG quốc tế (Môi trường - Xã hội - Quản trị).
![]() |
Ông La Văn Toàn – Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ An toàn thực phẩm |
Ông La Văn Toàn giải thích, chuẩn mực này không đối lập mà bổ sung cho các tiêu chuẩn khác vốn thiên về thành phần hóa học, cùng hướng tới mục tiêu chung là phát triển sản phẩm Việt Nam an toàn, chất lượng và bền vững. Việc áp dụng các tiêu chuẩn như ISO 14001 về quản lý môi trường, theo ông Toàn, sẽ giúp doanh nghiệp chứng minh trách nhiệm của mình một cách hiệu quả, thay vì chỉ áp dụng hình thức.
Cầu nối giữa khoa học và doanh nghiệp: Những trăn trở và khát vọng cất cánh
Phiên thảo luận tại diễn đàn đã thực sự trở thành một cuộc đối thoại thẳng thắn, bóc tách những khó khăn rất thực tế trong việc kết nối giữa nghiên cứu khoa học và sản xuất công nghiệp. Những trăn trở của doanh nghiệp cho thấy con đường ứng dụng công nghệ không hề bằng phẳng.
![]() |
Phiên thảo luận tại diễn đàn đã thực sự trở thành một cuộc đối thoại thẳng thắn, bóc tách những khó khăn rất thực tế trong việc kết nối giữa nghiên cứu khoa học và sản xuất công nghiệp |
Thạc sĩ Nguyễn Minh Hoàng - Phó Tổng giám đốc Công ty Dược phẩm Tâm Bình, chia sẻ một ví dụ điển hình: “Nhiều khi ở góc độ nghiên cứu, trên phòng lab thì mình thấy rất ổn... Giả sử như công nghệ chiết xuất tủa cồn... trên lý thuyết rất hay, giảm được tạp chất rất hiệu quả. Tuy nhiên khi mang ra quy mô công nghiệp thì nó lại đẻ ra quá nhiều cái khó”, từ bài toán thu hồi cồn để đảm bảo chi phí cho đến nguy cơ cháy nổ cực lớn. Ông nhấn mạnh, đây là rào cản mà nhiều doanh nghiệp phải tự mình đối mặt vì "chưa có được sự kết nối của cơ quan nhà nước hay ai đó có sự hỗ trợ".
![]() |
Nhà báo Nguyễn Tiến Luyến nêu câu hỏi tại phiên thảo luận. |
Câu chuyện của Tiến sĩ Nguyễn Văn Năm - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Hóa sinh Việt Nam, lại là góc nhìn của một nhà khoa học dấn thân làm kinh doanh. Ông chọn con đường khó khăn là nghiên cứu sản phẩm miễn dịch cho bệnh nhân ung thư, bởi ông tin rằng: "Cái khó nhất mà chúng ta còn leo và vượt qua được thì đương nhiên sẽ ứng dụng được trong lĩnh vực khác". Dù có những đột phá về khoa học, ông thừa nhận mình "không có kỹ năng về mặt thương mại lắm" và con đường phát triển còn "đi hơi chậm". Ông bày tỏ hy vọng rằng Nghị quyết 57 sẽ là cơ hội để những nhà khoa học tâm huyết như ông có thể phát triển thêm.
![]() |
Tiến sĩ Nguyễn Văn Năm - Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Hóa sinh Việt Nam, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Miễn dịch Trị liệu Ung thư Việt Nam trình bày tham luận |
Từ những chia sẻ này, Dược sỹ Nguyễn Xuân Hoàng, người điều phối phiên thảo luận, đã đúc kết một bài toán lớn: đa phần doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, rất khó tự đầu tư nghiên cứu vì đòi hỏi thời gian, tài chính và cơ chế. Do đó, sự liên kết với các viện, trường là tất yếu. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh một sự thay đổi cần thiết trong vai trò của Nhà nước: chuyển từ "hô hào" sang "bắt tay vào việc". Mô hình hợp tác công tư, trong đó Nhà nước tham gia trực tiếp hỗ trợ doanh nghiệp, được xem là động lực để "nhà nhà khởi nghiệp, người người khởi nghiệp".
Diễn đàn đã khép lại với lễ vinh danh các Doanh nghiệp tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ và tri ân các đơn vị tài trợ. Những cái bắt tay, những cuộc trao đổi thẳng thắn đã cho thấy khát vọng chung của cả giới khoa học và doanh nghiệp: xây dựng một hệ sinh thái sản phẩm thiên nhiên Việt Nam phát triển bền vững, dựa trên nền tảng khoa học vững chắc và sự đồng hành thực chất giữa ba nhà, vì mục tiêu cuối cùng là sức khỏe cộng đồng và vị thế của thương hiệu Việt.
Tại Diễn đàn, Ban Tổ chức đã Vinh danh 5 doanh nghiệp tiên phong ứng dụng khoa học, công nghệ trong phát triển các sản phẩm thiên nhiên vì sức khỏe cộng đồng:
1. Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam 2. Công ty TNHH SX & TM Dược Phẩm Tâm Bình 3. Công ty TNHH Dược liệu Fujiko Việt Nam 4. Hợp tác xã Bảo tồn và Phát triển Dược liệu Sóc Sơn 5. Công ty CP Truyền thông và Thương mại Dịch vụ Tây Bắc TV Ban Tổ chức đã trao hoa và bằng ghi danh, cảm ơn các đơn vị tài trợ, góp phần quan trọng tạo nên sự thành công của chương trình:
Trong phần bế mạc, Tổng Biên tập Nguyễn Viết Hưng - Trưởng Ban Tổ chức Diễn đàn, đã trân trọng cảm ơn các nhà tài trợ đồng hành, đóng góp cho thành công của chương trình: 1. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank); 2. Nhãn hàng Lifebouy - Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam; 3. Công ty Cổ phần Tập đoàn TH; 4. Công ty TNHH SX & TM Dược Phẩm Tâm Bình; 5. Công ty CP Đầu tư Thương mại 3DO; 6. Công ty TNHH Dược liệu Fujiko Việt Nam; 7. Hợp tác xã Bảo tồn và Phát triển Dược liệu Sóc Sơn; 8. Công ty CP Công nghệ Hoá sinh Việt Nam; 9. Công ty CP Truyền thông và Thương mại Dịch vụ Tây Bắc TV. |