Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nguồn: vietnamplus.vn
Sau thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc vừa nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa dốc sức làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn; tại miền Nam, đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp, thực hiện dã tâm xâm lược, thiết lập chính quyền tay sai, ra sức đàn áp, tàn sát nhân dân và lực lượng kháng chiến, áp đặt chế độ thống trị bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Nam - Bắc là một nhà”, “miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, cả dân tộc ta đã vững chí, bền gan, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, kiên trì đấu tranh suốt 21 năm ròng rã chống đế quốc Mỹ xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam đã xây dựng được đội quân chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng vững mạnh.
Trên cơ sở đó, chúng ta kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao; kết hợp giữa khởi nghĩa quần chúng và chiến tranh cách mạng, giữa nổi dậy và tiến công; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị, bằng ba mũi giáp công quân sự, chính trị và binh vận. Nhờ vậy, chúng ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ: “Chiến tranh đơn phương” (từ năm 1954 đến năm 1960), “Chiến tranh đặc biệt” (từ năm 1961 đến năm 1965), “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ra miền Bắc (từ năm 1965 đến năm 1968).
Phát huy tinh thần đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương (Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia), quân và dân ta đã kiên cường chiến đấu, làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ra miền Bắc của đế quốc Mỹ (từ năm 1969 đến năm 1973), tạo nên thế mạnh tại Hội nghị Pa-ri về Việt Nam, thúc đẩy việc ký kết “Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” (ngày 27/1/1973). Đặc biệt, từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975, quân và dân ta đã chớp thời cơ chiến lược, tạo thế và lực hơn hẳn đối phương, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, làm tan rã hoàn toàn quân đội và chính quyền Sài Gòn, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến thắng 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc, khẳng định tầm vóc vĩ đại, thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và khát vọng hòa bình của cả dân tộc, đánh dấu bước ngoặt quyết định đưa nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với thế giới, đó là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành đấu tranh giải phóng khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại cho dân tộc ta nhiều bài học vô giá, có ý nghĩa quan trọng đối với hôm nay và các thế hệ mai sau. Thắng lợi đó là thành quả của nhiều nhân tố, trong đó sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là một nhân tố cơ bản, quan trọng. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo.
Dựa vững trên nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã đưa ra được những quyết định sáng suốt và chính xác, trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình thế giới và trong nước, tương quan lực lượng giữa ta và địch để xác định đúng thời cơ lịch sử, hạ quyết tâm chiến lược mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đánh bại hoàn toàn đội quân của chính quyền Sài Gòn, giành thắng lợi triệt để trong thời gian ngắn nhất.
Việc đưa ra những quyết định mang tính lịch sử thể hiện tài thao lược, thông minh, sáng tạo tuyệt vời của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Đường lối, chủ trương của Đảng phản ánh ý chí, khát vọng độc lập, tự do của cả dân tộc, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, tạo bước ngoặt mang tính lịch sử để nhân dân ta đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng dân tộc, thống nhất non sông.
Chiến thắng 30/4/1975 xuất phát từ tinh thần khát khao độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất của toàn thể dân tộc, vừa mang ý nghĩa lịch sử, vừa mang tầm thời đại; thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ, ý chí “dòng máu Lạc Hồng”, không bao giờ khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Đồng thời, khẳng định một chân lý: Trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, một quốc gia đất không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng mác-xít chân chính có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là đế quốc hùng mạnh nhất.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi, song cũng còn không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động: Biển Đông luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, nguy cơ mất ổn định; các nước lớn tiếp tục gia tăng can dự, cạnh tranh ảnh hưởng, với mức độ, quy mô khác nhau ở khu vực; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra, gây mất ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Các thách thức an ninh phi truyền thống, như an ninh mạng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, ô nhiễm và suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, buôn lậu ma túy, di cư bất hợp pháp, tội phạm xuyên quốc gia,... đang là những thách thức của các quốc gia trên thế giới. Các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng chống phá Đảng, Nhà nước ta, thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi “phi chính trị hóa” Quân đội, với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt...
Tình hình nói trên đòi hỏi phải tăng cường đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là vận dụng hiệu quả bài học kinh nghiệm của Chiến thắng 30/4-1975; tận dụng, tranh thủ thời cơ, xây dựng, phát triển đất nước theo hướng hiện đại. Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong đó, tập trung làm tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng.
Đây là điều kiện tiên quyết, động lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; Chỉ thị số 35/CT-TW, ngày 30/5/2019, của Bộ Chính trị, “Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”..., coi đây là cơ sở quan trọng để Đảng ta hoạch định chủ trương, đường lối lãnh đạo qua các giai đoạn cách mạng nhằm đưa đất nước ta vững bước trên con đường đã chọn. Cần nhận thức đầy đủ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Cùng với đó, cần tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong nhân dân trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng; tập trung tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Trước mắt, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tạo đợt sinh hoạt chính trị, phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình thực hiện, phải kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, lấy bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu tối thượng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, suy thoái, tiêu cực, tệ nạn xã hội..., bảo đảm sự ổn định và phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Qua đó, tập hợp lực lượng, tạo xung lực chính trị và tinh thần, phát huy trí tuệ, sức mạnh của toàn dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, tạo tiềm lực, cơ sở vật chất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kế thừa những thành quả vĩ đại của cách mạng, của Chiến thắng 30/4/1975, ngày nay, nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là tích cực chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là ở địa bàn biên giới, vùng sâu, vùng xa. Đó là khát vọng chính đáng của toàn dân tộc, cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc của những năm tháng chiến tranh. Năm 2019, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu, giành được những thành tựu nổi bật, đánh dấu sự phát triển toàn diện của đất nước trên hầu hết các lĩnh vực.
Tuy nhiên, năm 2020, chúng ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, như hạn hán, xâm nhập mặn, dịch tả lợn châu Phi chưa được xử lý dứt điểm; đặc biệt, dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi-rút cô-rô-na (COVID-19) diễn biến hết sức phức tạp, lan rộng ra toàn cầu.Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong năm 2019, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục tận dụng tối đa cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức, chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo để đạt được kết quả tổng thể cao hơn. Tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Triển khai đồng bộ, thống nhất việc xây dựng, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, trong đó chú trọng quy hoạch, thiết kế, xây dựng các công trình có tính “lưỡng dụng”, “ngầm hóa” các công trình giao thông, thủy lợi và công trình đô thị, nhất là ở địa bàn trọng điểm; thực hiện tốt chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; có chính sách hỗ trợ, bảo vệ ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo.
Tiếp tục triển khai thực hiện tốt quy hoạch xây dựng, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, bảo đảm phù hợp với các chiến lược, đề án về quốc phòng, an ninh và quy hoạch sử dụng đất quốc phòng; đồng thời, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi đối với các đơn vị, doanh nghiệp quân đội thực hiện nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế trên các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, góp phần tạo thế đứng vững chắc để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Ba là, phát huy sức mạnh dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhân tố quan trọng làm nên Chiến thắng 30/4/1975 là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh của toàn dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm, phát huy sức mạnh dân tộc và xác định đây là chủ trương xuyên suốt, nhất quán, làm nên sức mạnh nội sinh để chiến thắng. Vì vậy, chúng ta cần đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy nội lực, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước; giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại.
Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời đại ngày nay là tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc, như Bác Hồ từng khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”. Trên tinh thần đó, chúng ta phải thực sự mở rộng dân chủ, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm cho nhân dân luôn gắn bó với Đảng, với chính quyền, với Quân đội nhân dân. Việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết hiện nay phải gắn với bảo đảm các lợi ích, quan tâm đến nguyện vọng chính đáng của người dân; phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân dân, bảo đảm để nhân dân thật sự là chủ, làm chủ như Hiến pháp đã quy định.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sức mạnh dân tộc cần phải gắn kết chặt chẽ với sức mạnh thời đại. Do đó, phải tập trung quán triệt, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng với phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hướng tới đẩy mạnh, nâng tầm đối ngoại đa phương và song phương; là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thông qua đó, tận dụng tối đa các nguồn lực, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trong đó, đối ngoại quốc phòng được xác định là một kênh quan trọng trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, nhất là trong điều kiện Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2020.
Bốn là, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, tạo nền tảng bảo vệ vững chắc Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền tảng chính trị - tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân được phát huy lên tầm cao mới. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quán triệt chủ trương, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị khóa XII về quốc phòng, an ninh; không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng theo hướng vững mạnh toàn diện, ổn định lâu dài, ngày càng hiện đại. Trong đó, đặc biệt coi trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm, biên giới, biển, đảo. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Các cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng khu vực phòng thủ, trong đó cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở, tạo nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh; phòng ngừa, xử lý có hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; gắn kết chặt chẽ việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ cơ hội từ hội nhập để xử lý có hiệu quả những vấn đề quan trọng, như an ninh biên giới, biển, đảo, an ninh, an toàn không gian mạng..., góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Năm là, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, công cụ bạo lực sắc bén, tin cậy của Đảng.
Tiếp nối truyền thống, kinh nghiệm của Chiến thắng 30/4/1975, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; tiếp tục phát huy bản chất cách mạng, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, nỗ lực khắc phục khó khăn, thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Toàn quân tập trung xây dựng vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, chấp hành nghiêm mệnh lệnh và chế độ sẵn sàng chiến đấu; làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, pháp luật về quân sự, quốc phòng; chủ động xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến đấu và đấu tranh, ngăn chặn, xử lý chính xác, kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, không để bị động, bất ngờ. Chú trọng kiện toàn biên chế, tổ chức, theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; đẩy mạnh xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, môi trường văn hóa, chấp hành pháp luật của Nhà nước; gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tham gia tích cực, có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở chính trị, đời sống văn hóa mới, nhất là trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo; là lực lượng xung kích, nòng cốt trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống dịch bệnh... Cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn có mặt ở những nơi xung yếu, khó khăn, nguy hiểm, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và làm công tác dân vận..., góp phần thắt chặt tình đoàn kết, gắn bó mật thiết quân - dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị vũ khí, thiết bị quân sự hiện đại, nhằm tạo sức mạnh sẵn sàng đối phó với mọi cuộc chiến tranh xâm lược dưới bất kỳ hình thức nào. Thực hiện tốt công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần nâng cao vị thế của dân tộc Việt Nam yêu hòa bình và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng trên trường quốc tế.
Kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước là dịp để chúng ta ôn lại và tự hào về trang sử vẻ vang, truyền thống hào hùng của Quân đội nhân dân anh hùng, của dân tộc Việt Nam anh hùng; đồng thời, nhận thức sâu sắc hơn nữa về ý nghĩa, giá trị lịch sử của thắng lợi vĩ đại này, về công lao của Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, nhân dân anh hùng và sự hy sinh to lớn của các anh hùng liệt sĩ. Phát huy tinh thần và hào khí của Chiến thắng 30/4/1975, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, hùng cường, “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn.
Theo tapchicongsan.org.vn