Giá cà phê hôm nay quay đầu giảm 600 đồng/kg
Giá cà phê hôm nay (10/01), ghi nhận thị trường cà phê trong nước tiếp tục tăng so với cùng thời điểm hôm qua.
Tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc (Lâm Đồng) giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 69.700 đồng/kg.
Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay ở mức 70.400 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua cùng mức 70.300 đồng/kg.
Tương tự tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê hôm nay thu mua ở mức 70.500 đồng/kg tại Gia Nghĩa và 70.400 đồng/kg ở Đắk R'lấp.
Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê hôm nay ở mức 70.300 đồng/kg (Chư Prông), ở Pleiku và La Grai cùng giá 70.200 đồng/kg. Còn giá cà phê hôm nay tại tỉnh Kon Tum được thu mua với mức 70.300 đồng/kg.
Theo ghi nhận, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng. Theo đó, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 3/2024 được ghi nhận tại mức 2.932 USD/tấn sau khi tăng 1,63% (tương đương 47 USD).
Giá cà phê arabica giao tháng 3/2024 tại New York ở mức 184,1 US cent/pound sau khi tăng 1,49% (tương đương 2,7 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h40 (giờ Việt Nam).
Tháng 11/2023, xuất khẩu cà phê các loại của khu vực Nam Mỹ đã tăng 24,7% lên gần 6,1 triệu bao. Sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực chủ yếu đến từ Brazil, quốc gia này ghi nhận khối lượng xuất khẩu tăng 21,1% lên hơn 4,3 triệu bao.
Đáng chú ý, xuất khẩu cà phê robusta của Brazil trong tháng 11 đã tăng đột biến 9,5 lần (850,2%), lên 0,86 triệu bao từ 0,09 triệu bao của cùng kỳ năm 2022. Đây là con số cao kỷ lục của Brazil, vượt xa mức đỉnh 0,7 triệu bao đạt được vào tháng 8/2023.
Brazil là một trong những nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê robusta lớn nhất thế giới, chiếm 8,1% xuất khẩu robusta toàn cầu trong niên vụ 2021-2022 với hơn 3,9 triệu bao.
Tuy nhiên, chỉ trong 4 tháng từ tháng 7 đến tháng 10/2023, thị phần của Brazil trong tổng xuất khẩu robusta toàn cầu đã tăng gấp hơn 2 lần lên 22,3%, với 3,09 triệu bao. Brazil đã tận dụng khá tốt cơ hội từ thị trường khi nhu cầu thế giới ở mức cao, trong khi sản lượng xuất khẩu từ Việt Nam, nước xuất khẩu robusta lớn nhất thế giới giảm mạnh 27,5% trong quãng thời gian kể trên xuống còn 4,9 triệu bao.
Việc xuất khẩu cà phê robusta của Brazil tiếp tục tăng mạnh vào tháng 11/2023 bất chấp sự phục hồi của Việt Nam cho thấy sự đột phá mạnh mẽ của nước này trên thị trường robusta thế giới và xu hướng này có thể sẽ tiếp tục.
Xuất khẩu cà phê của khu vực Trung Mỹ và Mexico cũng tăng 15,7% lên 0,4 triệu bao vào tháng 11. Đưa tổng xuất khẩu của khu vực tăng 11% trong 2 tháng đầu niên vụ 2023-2024 lên 0,9 triệu bao.
Guatemala, Honduras và Mexico, ba quốc gia xuất khẩu chính trong khu vực đã ghi nhận mức tăng trưởng lần lượt 114%, 29,7% và 11,8% trong tháng 11. Điều này cho thấy sản xuất của khu vực đang phục hồi sau khi giảm mạnh trong niên vụ 2022-2023.
Theo đó, tổng khối lượng xuất khẩu trung bình từ tháng 10 và tháng 11 của ba nước kể trên là 0,7 triệu bao trong niên vụ 2017-2018 đến 2021-2022, nhưng đã giảm 14,6% xuống còn 0,6 triệu bao trong niên vụ 2022-2023. Hiện con số này hiện quay trở lại mức 0,7 triệu bao trong niên vụ 2023-2024.
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu cà phê từ khu vực châu Phi giảm 13,5% trong tháng 11 và giảm 8,1% trong 2 tháng đầu niên vụ 2023-2024, đạt tổng cộng gần 2,1 triệu bao.
Đây đã là tháng tăng trưởng âm thứ ba liên tiếp của khu vực và một số suy đoán cho rằng sự gia tăng xuất khẩu của Brazil đang lấn át các nhà xuất khẩu robusta truyền thống ra khỏi thị trường, ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu cà phê của châu Phi, nơi sản xuất robusta chủ yếu.
Bên cạnh đó, Uganda, nước sản xuất và xuất khẩu cà phê robusta lớn nhất ở châu Phi, cũng bị ảnh hưởng bởi vụ thu hoạch bị trì hoãn, tác động tiêu cực đến nguồn cung sẵn có.
Xuất khẩu cà phê các loại từ khu vực châu Á và châu Đại Dương cũng giảm mạnh 18% xuống còn 3,1 triệu bao trong tháng 11. Nguyên nhân là bởi xuất khẩu của Indonesia giảm 45,2% xuống chỉ còn 0,5 triệu bao, mức thấp nhất kể từ năm 2018.
Sản lượng thu hoạch của Indonesia ước tính giảm 16,6% trong niên vụ 2023-2024, xuống còn 10 triệu bao từ 12 triệu bao của niên vụ 2022-2023 do thời tiết bất lợi, mưa quá nhiều trong giai đoạn tháng 4 đến tháng 5/2023 đã làm hư hỏng trái cà phê.
Xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm 7,7% trong tháng 11, nhưng đang cho thấy sự cải thiện đáng kể so với mức giảm mạnh 23,6%, 45,0% và 44,7% trong tháng 8, tháng 9 và tháng 10/2023. Điều này cho thấy các vấn đề về nguồn cung tại Việt Nam đã bắt đầu được giải quyết, sau khi mức tồn kho được báo cáo ở mức thấp nhất nhiều năm vào quý IV của niên vụ 2022-2023.
Giá tiêu hôm nay điều chỉnh giảm
Giá tiêu hôm nay (10/01), được ghi nhận tại thị trường trong nước được điều chỉnh giảm xuống khoảng 80.000 - 82.000 đồng/kg.
Cụ thể, mức giá thấp nhất là 80.000 đồng/kg ghi nhận tại tỉnh Gia Lai, cao hơn một chút là 80.500 đồng/kg tại tỉnh Đồng Nai, cùng giảm 1.000 đồng/kg.
Đồng thời, hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông cũng điều chỉnh giá giảm 1.000 đồng/kg và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 1.500 đồng/kg, xuống cùng mức là 81.000 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại tỉnh Bình Phước được ghi nhận tại mức 82.000 đồng/kg - giảm 1.000 đồng/kg.
Theo ước tính, năm 2023, Việt Nam xuất khẩu hạt tiêu đạt 267 nghìn tấn, trị giá 912 triệu USD, tăng 16,6% về lượng, nhưng giảm 6,0% về trị giá so với năm 2022.
Giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam đạt khoảng 3.420 USD/tấn trong năm 2023, giảm 19,4% so với năm 2022.
Dự báo xuất khẩu hạt tiêu năm 2024 sẽ thuận lợi về lượng và giá do sản lượng giảm. Lượng tồn kho hạt tiêu năm 2023 chuyển sang năm 2024 sẽ thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Trong khi theo đánh giá chung của các doanh nghiệp, vụ tiêu năm 2024 sẽ giảm khoảng 10-15%, với sản lượng thu hoạch dự kiến ước đạt 160.000-165.000 ngàn tấn.
Kể từ cuối tháng 12/2023, Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) đã 2 lần điều chỉnh tăng giá tiêu xuất khẩu của Việt Nam với tổng mức tăng là 200 USD/tấn.
Trong 11 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang khu vực châu Âu, châu Mỹ và châu Phi giảm lần lượt 22%, 22,2% và 9,7% so với cùng kỳ năm 2022. Ngược lại, xuất khẩu sang châu Á và châu Đại dương tăng lần lượt 11,4% và 157,3% so với cùng kỳ năm 2022.
Tính trong 11 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang hầu hết thị trường truyền thống và tiềm năng giảm so với cùng kỳ năm 2022, gồm: Mỹ, Ấn Độ, Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Đức... Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc tăng tới 188,2%, đạt 117 triệu USD. Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang Papua New Guinea tăng trưởng 4 con số.
Nhìn chung, trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu hầu hết các chủng loại hạt tiêu giảm so với cùng kỳ năm 2022, ngoại trừ hạt tiêu đen tăng nhẹ 0,3%, ghi nhận từ báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương).