Trong báo cáo Đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 và tình hình triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 để báo cáo Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo để hoàn chỉnh báo cáo trình Quốc hội trong Kỳ họp tới Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã chỉ ra kinh tế quý I năm nay của nước ta tuy chỉ đạt mức tăng trưởng 3,82%, thấp nhất trong 10 năm qua nhưng trong bối cảnh hiện nay, đây là mức tăng trưởng khá so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Quý I gần 34,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường
Đặc biệt, một số vấn đề xã hội quan tâm đã được Bộ Kế hoạch - Đầu tư tổng hợp báo cáo Chính phủ.
Về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, các số liệu về tình hình đăng ký doanh nghiệp quý I/2020 cho thấy, những diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.
Số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong quý I/2020 có xu hướng chững lại, tỷ lệ gia tăng thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong quý I có xu hướng chững lại.
Tính chung quý I, cả nước có 29,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 351,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,4% về số doanh nghiệp, giảm 6,4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước.
Tính cả số vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp là 552.419 tỷ đồng (giảm 23,5%), tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong quý I đạt khoảng 903.788 tỷ đồng, giảm 17,7%.
Cũng theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, tổng lượng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước cho thấy tâm lý của các nhà đầu tư và chủ doanh nghiệp đã bị ảnh hưởng lớn bởi tình hình phức tạp của dịch bệnh Covid-19, doanh nghiệp đang e ngại trong việc đầu tư thêm vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong quý I năm 2020 là 243.711 lao động, giảm 23,3%.
Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 14,8 nghìn doanh nghiệp, giảm 1,6%, trong khi tỷ lệ này của cùng kỳ năm 2019 tăng đến 78,1%. Đây là điều đáng lo ngại bởi theo ghi nhận hàng năm thì khoảng thời gian quý I thường là lúc các doanh nghiệp lên kế hoạch kinh doanh cho một năm tài chính mới, do đó, tỷ lệ doanh nghiệp quay trở lại hoạt động thời gian này sẽ nhiều nhất.
Tuy nhiên, do dịch bệnh vẫn chưa được kiểm soát nên doanh nghiệp vẫn đang chần chừ, nghe ngóng thông tin để có phương án tối ưu nhất. Tình hình doanh nghiệp rút khỏi thị trường thể hiện rõ xu hướng của doanh nghiệp hiện nay, đó là tâm lý nghe ngóng, chờ đợi, “đóng băng” hoặc đưa doanh nghiệp vào tình trạng “ngủ đông” để xem xét tình hình tiến triển của dịch bệnh, rồi quyết định tiếp tục kinh doanh hay đóng cửa doanh nghiệp, chưa đóng cửa doanh nghiệp hoàn toàn ở thời điểm này. Điều này thể hiện ở sự gia tăng mạnh về số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn và giảm về số doanh nghiệp giải thể, chờ giải thể.
Trong quý I, có gần 34,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (tăng 2,0% so với cùng kỳ năm trước), bao gồm: 18,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 26% so với cùng kỳ năm trước; 12,2 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 20,6%, 4,1 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, (giảm 0,02%).
Tình hình lao động, việc làm cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp, thất nghiệp tăng cao.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I ước tính là 55,3 triệu người, giảm 144,2 nghìn người so với cùng kỳ năm 2019 do trong quý thị trường lao động giảm ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cả nước và ở các ngành, nghề lao động; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ước đạt 75,4%, giảm 30 Năm 2016 là 10,9%; năm 2017 là 9,5%; năm 2018 là 10%; năm 2019 là 9,1%; năm 2020 là 2,2%. 19 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, thấp nhất 10 năm qua.
Trong đó, lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong quý I/2020 ước tính là 54,2 triệu người 31; tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước ước tính là 2,02%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,95%; khu vực nông thôn là 1,57% (cùng kỳ năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước là 2%, trong đó trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,95%; khu vực nông thôn là 1,52%).
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động quý I ước tính là 48,9 triệu người, tăng 4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I là 2,22%, trong đó khu vực thành thị là 3,18%; khu vực nông thôn là 1,73% (cùng kỳ năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,17%, trong đó khu vực thành thị là 3,11%; khu vực nông thôn là 1,67%).
Theo thống kê hiện nay, cả nước có khoảng 25 triệu lao động làm công hưởng lương, trong đó, 11 triệu lao động trong doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội, 10,4 triệu lao động trong doanh nghiệp tham gia bảo hiểm thất nghiệp; khoảng 18 triệu lao động phi chính thức.
Tổng hợp báo cáo nhanh của các doanh nghiệp, có khoảng 10% doanh nghiệp phải cắt giảm quy mô sản xuất. Bước sang đầu tháng 3, đặc biệt tuần thứ 2 của tháng 3, khi dịch Covid-19 có diễn biến phức tạp, số lượng doanh nghiệp phải cắt giảm quy mô sản xuất tăng lên rõ rệt với khoảng trên 15% trong tổng số doanh nghiệp. Đặc biệt tại một số ngành, lĩnh vực như du lịch, lưu trú, nhà hàng cắt giảm từ 70-80%.
Ảnh minh họa
Tính từ 01/01/2020 đến 26/3/2020, đã có trên 153 nghìn người mất việc làm phải nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp và hàng triệu lao động bị ngừng việc, tập trung vào một số ngành nghề, lĩnh vực như: vận tải, dệt may, da giày, dịch vụ du lịch, lưu trú, ăn uống,…
Nếu diễn biến dịch không có thay đổi lớn, ước tính quý II sẽ có trên 250 nghìn lao động trong doanh nghiệp bị mất việc làm và 1,5-2 triệu lao động bị ngừng việc. Trong trường hợp dịch bùng phát mạnh hơn, ước tính quý II sẽ có 400 nghìn lao động trong doanh nghiệp bị mất việc làm và khoảng 3 triệu lao động có nguy cơ bị ngừng việc.
Vận động người dân ưu tiên dùng hàng trong nước
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn còn đang có dấu hiệu tiến triển phức tạp tại Việt Nam, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các cấp, các ngành, các địa phương cần tiếp tục chủ động, bình tĩnh, thận trọng triển khai kịp thời các giải pháp cấp bách nhằm ứng phó với mọi tình huống.
Đồng thời, cần chuẩn bị sẵn các kịch bản ứng phó, kể cả kịch bản xấu nhất để không để rơi vào thế bị động. Nhiệm vụ trước mắt trong đợt cao điểm phòng, chống dịch Covid-19 là cần tập trung, ưu tiên mọi nguồn lực, bao gồm cả nhân lực, trí lực, nguồn lực về tài chính, máy móc, trang thiết bị, vật tư để phòng, chống, kiểm soát tốt dịch Covid19, không để dịch lây lan rộng, bảo đảm an toàn và ổn định tâm lý cho nhân dân.
Các cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện các chỉ đạo tại các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về dịch Covid-19 như Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04 tháng 3 năm 2020, Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 11 tháng 3 năm 2020, Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2020.
Đồng thời cần bảo đảm cung cấp đủ các yêu cầu về lương thực, thực phẩm, thuốc, trang thiết bị y tế và các nhu yếu phẩm thiết yếu cho người dân. Xử lý nghiêm các trường hợp khai báo dịch không trung thực; né tránh, trốn cách ly, vi phạm các quy định về phòng, chống dịch; tiếp tục xử lý nghiêm các trường hợp tuyên truyền sai sự thật về dịch Covid-19.
Cùng với việc phòng, chống dịch, cần huy động tối đa các nguồn lực nhằm thực hiện các giải pháp cụ thể để tháo gỡ các khó khăn trong sản xuất kinh doanh, hỗ trợ các đối tượng doanh nghiệp, người lao động, nhóm yếu thế, đối tượng xã hội bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, bảo đảm an sinh xã hội. Đồng thời, kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các tổ chức, cá nhân cố tình gây khó khăn, làm chậm thời gian, tiến độ thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát, đặc biệt đối với mặt hàng thịt lợn, sớm giảm thuế nhập khẩu thịt lợn, hạn chế tối đa việc đầu cơ, găm hàng để tăng giá lợn thịt, lợn giống.
Đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa. Tập trung phát huy các dư địa của động lực hỗ trợ tăng trưởng trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương; vận động người dân ưu tiên dùng hàng trong nước, ủng hộ doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trong giai đoạn khó khăn.
Tiếp tục theo dõi chặt chẽ, phân tích, tổng hợp, đánh giá về tình hình và những ảnh hưởng, tác động của dịch bệnh tới nền kinh tế, tới từng ngành, lĩnh vực, địa phương, khu vực doanh nghiệp, người lao động, các đối tượng xã hội đểđưa ra các giải pháp ứng phó hiệu quả và kịp thời.
Về trung và dài hạn, cần đẩynhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp, tổ chức lại và phục hồi, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh, bù đắp, giảm thiểu các thiệt hại, hướng tới xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển bền vững hơn, có sức chống chịu và khả năng thích ứng với các biến động của bối cảnh bên trong và bên ngoài của nền kinh tế, nhất là các thách thức an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh. Đồng thời, chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để đón bắt thời cơ, thu hút đầu tư và các nguồn lực bên ngoài từ nhiều quốc gia, khu vực phục vụ phát triển đất nước.
Lê Quyên (Theo HHTH)