Đưa bảo hiểm nông nghiệp đến gần hơn với người nông dân Sửa đổi quy định thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp Mức hỗ trợ mới phí bảo hiểm nông nghiệp |
Từ lý thuyết đến thực tế
Bảo hiểm nông nghiệp, về bản chất, không chỉ là một sản phẩm kinh doanh mà còn là “lưới đỡ an sinh” cho nông dân. Nó giúp san sẻ rủi ro, bù đắp tổn thất, tạo điều kiện khôi phục sản xuất sau thiên tai. Thực tế hiện nay, bảo hiểm nông nghiệp đã bộc lộ không ít rào cản khiến nông dân “e ngại”, chính quyền gặp nhiều khó khăn.
![]() |
TS. Nguyễn Văn Quang - Trưởng khoa Tài chính – Ngân hàng, Trường Đại học Mở Hà Nội ( ảnh: Nhân vật cung cấp) |
Theo ông TS. Nguyễn Văn Quang - Trưởng khoa Tài chính – Ngân hàng, Trường Đại học Mở Hà Nội. Nguyên nhân cốt lõi khiến bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam chưa thể trở thành “điểm tựa” vững chắc cho nông dân không chỉ nằm ở thu nhập thấp, mà là sự kết hợp của nhiều rào cản sâu xa hơn, cả về phía người nông dân, doanh nghiệp Bảo hiểm và Nhà nước
Thứ nhất, vấn đề niềm tin và thói quen của người nông dân: Người nông dân thường có tâm lý “ăn chắc mặc bền”, ít quen với việc chi tiền trước cho một rủi ro chưa chắc xảy ra. Trong khi đó, nhiều trường hợp chậm trễ, tranh chấp khi bồi thường trong quá khứ cũng khiến nông dân nghi ngờ hiệu quả của bảo hiểm. Đây là rào cản tâm lý lớn.
Thứ hai, khó khăn trong thiết kế sản phẩm về phía doanh nghiệp Bảo hiểm: Nông nghiệp chịu tác động mạnh từ thiên tai, dịch bệnh với mức độ rủi ro cao và khó dự đoán. Nếu phí bảo hiểm tính đúng rủi ro thì cao, nông dân khó tiếp cận. Nếu phí thấp để dễ bán thì doanh nghiệp bảo hiểm lại khó bền vững. Cân bằng giữa lợi ích của người dân và tính khả thi cho doanh nghiệp là thách thức rất lớn.
Thứ ba, cơ sở dữ liệu và hạ tầng hỗ trợ về phía Nhà nước còn hạn chế: Bảo hiểm cần dựa trên dữ liệu đầy đủ về thời tiết, sản lượng, dịch bệnh… để định phí và chi trả minh bạch. Nhưng ở Việt Nam, hệ thống dữ liệu phân tán, thiếu chuẩn hóa, dẫn đến rủi ro cho cả doanh nghiệp lẫn người mua.
Thứ tư, chính sách hỗ trợ của Nhà nước chưa đủ mạnh và chưa ổn định: Nhà nước đã có thí điểm trợ cấp phí bảo hiểm, nhưng phạm vi còn hẹp, thủ tục rườm rà và nguồn ngân sách chưa ổn định. Do đó, chưa tạo được niềm tin lâu dài để nông dân gắn bó.
Tóm lại, thu nhập thấp chỉ là một phần của vấn đề. Rào cản lớn hơn nằm ở niềm tin của người dân, tính đặc thù rủi ro cao trong nông nghiệp, hạn chế dữ liệu – công nghệ, và chính sách hỗ trợ chưa nhất quán. Nếu muốn bảo hiểm nông nghiệp thực sự là “điểm tựa”, cần đồng bộ nhiều giải pháp: nâng cao tính minh bạch, ứng dụng công nghệ (dữ liệu vệ tinh, trí tuệ nhân tạo), mở rộng hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời truyền thông để thay đổi thói quen và củng cố niềm tin cho nông dân.
Cần ‘bộ ba động lực’ để trở thành trụ cột an sinh
Thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam còn nhiều khó khăn do rủi ro cao, tỷ lệ tham gia thấp và nhận thức chưa đồng đều. Tuy vậy, những kết quả ban đầu đã cho thấy đây là hướng đi đúng. Từ nông dân vùng lũ miền Trung, trang trại nuôi tôm Nam Bộ đến doanh nghiệp chế biến nông sản miền Bắc – tất cả đều nhận thấy bảo hiểm không chỉ là công cụ tài chính, mà còn là “tấm khiên” bảo vệ sinh kế.
Để bảo hiểm nông nghiệp trở thành thiết chế phổ biến, cần một khuôn khổ pháp lý minh bạch và ổn định: hỗ trợ phí, ưu đãi thuế, cho phép kênh bancassurance vận hành trong giới hạn bảo vệ khách hàng, đồng thời ban hành nghị định riêng về bảo hiểm nông nghiệp với cơ chế chia sẻ rủi ro rõ ràng. Song song, cần đẩy mạnh truyền thông, đào tạo, ứng dụng công nghệ trong giám sát mùa vụ, cảnh báo sớm và rút ngắn quy trình bồi thường. Các mô hình liên kết “4 nhà” cùng bảo hiểm chỉ số, bảo hiểm rủi ro thời tiết cũng nên được nhân rộng.
![]() |
Ông Đỗ Minh Hoàng – Thành viên HĐQT Bảo hiểm Agribank |
Ông Đỗ Minh Hoàng – Thành viên HĐQT Bảo hiểm Agribank nhận định: vấn đề không phải là bảo hiểm có tồn tại hay không, mà là "bảo hiểm có thực sự đến được với người cần nó nhất hay chưa". Theo ông, người dân ở vùng nông nghiệp thường có thu nhập thấp, ít hiểu biết về bảo hiểm, trong khi rủi ro luôn hiện hữu. Nếu không có sự hỗ trợ chính sách và truyền thông phù hợp, thì dù sản phẩm có thiết kế tốt đến đâu, bảo hiểm cũng khó phát huy tác dụng. Nhà nước cần xác định rõ: bảo hiểm không chỉ là hàng hóa thị trường, mà phải được nhìn nhận là một thiết chế an sinh, góp phần giảm gánh nặng ngân sách khi thiên tai xảy ra.
Cùng chung quan điểm, ông TS. Nguyễn Văn Quang chia sẻ thêm về việc sửa đổi Nghị định 58/2018/NĐ-CP là cơ hội quan trọng để tháo gỡ những điểm nghẽn lâu nay. Chính sách cần tập trung vào bốn hướng:
Thứ nhất, tăng cường hỗ trợ phí bảo hiểm ổn định và lâu dài, thay vì ngắn hạn theo từng giai đoạn.
Thứ hai, xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro công – tư, với Nhà nước là “người đồng hành” qua quỹ dự phòng hoặc đồng bảo hiểm.
Thứ ba, đơn giản hóa thủ tục, mở rộng kênh phân phối qua hợp tác xã, tổ hợp tác hoặc nền tảng số.
Thứ tư, khuyến khích ứng dụng dữ liệu vệ tinh, IoT, trí tuệ nhân tạo để định phí, giám định minh bạch và giảm chi phí.
Điểm mấu chốt của sửa đổi Nghị định 58/2018/NĐ-CP là tạo “bộ ba động lực”: hỗ trợ tài chính bền vững – chia sẻ rủi ro công tư – đơn giản hóa, số hóa quy trình. Chỉ khi đó, bảo hiểm nông nghiệp mới đủ sức khuyến khích và giữ chân cả người nông dân lẫn doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong bối cảnh mùa mưa bão đang đến gần, bảo hiểm nông nghiệp không thể là “lựa chọn xa xỉ”, mà cần trở thành một phần trong văn hóa sống chung với rủi ro của người nông dân Việt Nam.
Nếu chậm trễ, mỗi cơn bão đi qua sẽ không chỉ cuốn theo mùa màng, tài sản, mà còn làm chậm bước tiến của cả ngành nông nghiệp Việt Nam trên con đường phát triển bền vững.
![]() |
![]() |
![]() |