Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy báo cáo thẩm tra dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). |
Chiều 25/5, tiếp tục Chương trình kỳ họp thứ 5, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội họp phiên toàn thể tại Hội trường nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung phiên họp.
Báo cáo tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với những lý do như đã nêu trong Tờ trình số 162/TTr-CP ngày 28/4/2023 của Chính phủ. Về cơ bản, dự thảo Luật đã thể chế hóa quan điểm, định hướng đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này.
Hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu, lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng chịu tác động, các cơ quan quản lý có liên quan; tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài nguyên nước; tiếp thu nghiêm túc nhiều ý kiến thẩm tra, góp ý. Hồ sơ dự án Luật đáp ứng các yêu cầu theo quy định.
Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy, Cơ quan chủ trì soạn thảo đã tích cực tổ chức rà soát, tập trung vào 48 bộ luật, luật, nghị quyết, 02 điều ước quốc tế có liên quan đến Luật Tài nguyên nước, trong đó 11 luật có nhiều nội dung liên quan trực tiếp để xây dựng, hoàn thiện các quy định trong dự thảo Luật. Do đó, các quy định trong dự thảo Luật cơ bản đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và bảo đảm tính khả thi. Tuy nhiên, vẫn có một số điều, khoản cần rà soát, chỉnh sửa cho phù hợp, đồng bộ với hệ thống pháp luật, kể cả một số dự án luật đang được Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 5.
Làm rõ một số nội dung cụ thể của dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT Lê Quang Huy cho biết, Ủy ban KH,CN&MT cơ bản nhất trí với các nội dung về nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả do nước gây ra như dự thảo Luật. Tuy nhiên, đề nghị thể hiện rõ ràng hơn các nguyên tắc quản lý cho từng hoạt động cụ thể (từ quản lý tài nguyên; quản lý hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước; hoạt động bảo vệ tài nguyên nước; hoạt động hạn chế tác hại do nước gây ra...) và tối ưu hóa trong khai thác, sử dụng nước.
Ủy ban KH,CN&MT cũng tán thành với sự cần thiết quy định về Điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước trong dự thảo Luật. Tuy nhiên, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo làm rõ cơ chế, điều kiện sử dụng ngân sách nhà nước để các tổ chức, cá nhân thực hiện dự án điều tra cơ bản tài nguyên nước, cập nhật thông tin, kết quả điều tra vào hệ thống thông tin tài nguyên nước; trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan trong cập nhật, chia sẻ thông tin về điều tra cơ bản tài nguyên nước; phân biệt hoạt động điều tra cơ bản và hoạt động kiểm kê tài nguyên nước tại Điều 12; bổ sung nội dung điều tra ảnh hưởng chất lượng nguồn nước đối với sức khỏe người dân tại khoản 2 Điều 12.
Ủy ban KH,CN&MT thống nhất với việc xác định chức năng nguồn nước, phân vùng chức năng nguồn nước để bảo vệ tài nguyên nước. Tuy nhiên, cần thể hiện rõ hơn quan điểm này. Đồng thời đề nghị làm rõ sự tham gia của các bên có liên quan khi xác định dòng chảy tối thiểu; xem xét việc quy định dòng chảy tối thiểu đối với một số khu vực mà lượng nước về sông, suối theo mùa hoặc có thời điểm khô cạn.
Về công cụ kinh tế, chính sách và nguồn lực cho tài nguyên nước (Chương VI), Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT Lê Quang Huy nhấn mạnh, Ủy ban KH,CN&MT thống nhất với việc bổ sung quy định liên quan đến cơ chế tài chính nhằm làm rõ giá trị kinh tế của tài nguyên nước trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo theo nguyên tắc kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đề nghị nghiên cứu bổ sung công cụ kinh tế, cơ chế tài chính liên quan đến phân bổ nguồn thu cho các đối tượng thụ hưởng từ hoạt động bảo vệ nguồn sinh thủy; cần đối chiếu, rà soát quy định giá tính thuế tài nguyên nước theo quy định của pháp luật về thuế, giá và phải căn cứ vào các yếu tố như: mục đích sử dụng, mức độ khan hiếm của tài nguyên nước, điều kiện khai thác và đặc điểm kinh tế - xã hội của khu vực, lưu vực sông.
Đồng thời, Ủy ban KH,CN&MT cơ bản tán thành quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp tại các Điều 76 và 77 của dự thảo Luật. Tuy nhiên, cần phân định rõ trách nhiệm quản lý tài nguyên nước với quản lý công trình khai thác, sử dụng nước của các Bộ, ngành; bổ sung quy định về cơ chế phối hợp giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với các Bộ khác có liên quan đến có khai thác, sử dụng nước để việc quản lý được thống nhất, đồng bộ, tránh chồng chéo, gây lãng phí nguồn lực và bỏ sót lĩnh vực quản lý.
Về hiệu lực thi hành, Ủy ban KH,CN&MT đề nghị cần rà soát, đánh giá kỹ lưỡng để xác định lộ trình thực hiện cho phù hợp, bảo đảm tính khả thi của một số quy định, chính sách mới của dự thảo Luật và thể hiện cụ thể tại điều khoản chuyển tiếp (Điều 83); cân nhắc thời điểm luật có hiệu lực thi hành để đảm bảo tính khả thi do có nhiều chính sách mới.