![]() |
Tọa đàm về thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam và việc sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. |
Ngày 21/3, Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội tổ chức Tọa đàm về thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam và việc sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Năm 2024, lực lượng lao động nước ta duy trì xu hướng tăng. Lao động phi chính thức chiếm hơn 3/5 tổng số lao động có việc làm của cả nước. Thu nhập bình quân tháng của người lao động tiếp tục được cải thiện. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động duy trì xu hướng giảm. Cùng với quá trình phát triển các ngành kinh tế, cơ cấu lao động theo ngành của Việt Nam có sự chuyển hướng tích cực, giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng trong khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tiếp tục tăng, tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực lao động Việt Nam còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho nhu cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập.
Qua thảo luận, các đại biểu đánh giá, trong năm 2024, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm tiếp tục có xu hướng giảm nhờ tình hình kinh tế - xã hội của nước ta duy trì xu hướng tích cực. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2024 là 1,84%, giảm 0,18 điểm phần trăm so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2024 là 2,24%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với năm trước. Tình hình thất nghiệp năm 2024 cải thiện hơn so với năm trước và vẫn dao động quanh mức 2,2% như thời kỳ trước dịch Covid-19 xuất hiện. Bên cạnh đó, thu nhập bình quân của người lao động tiếp tục được cải thiện. Năm 2024, thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng 8,6%.
Đáng chú ý, các đại biểu cho biết, mặc dù tỷ lệ lao động qua đào tạo tiếp tục tăng nhưng chất lượng nguồn nhân lực lao động Việt Nam hiện còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho nhu cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Phần đông người lao động của Việt Nam vẫn còn phải đang chấp nhận làm các công việc dễ tổn thương, không được đóng bảo hiểm xã hội, không có hợp đồng lao động, đó là việc làm phi chính thức. Trong tổng số lao động có việc làm, lao động làm công hưởng lương vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu với 53,7%. Năng suất lao động tăng đều với tốc độ cao nhưng quy mô vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực…
Các đại biểu nhấn mạnh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh nguồn lao động chất lượng của Việt Nam so với các quốc gia trên thế giới và sẽ là cơ sở cho sự phát triển bền vững của cơ quan - doanh nghiệp dẫn đến sự phát triển kinh tế bền vững của một quốc gia.
![]() |
Phó Trưởng ban Thống kê Dân số và Lao động, Cục Thống kê, Bộ Tài chính Nguyễn Huy Minh |
Trong thời gian tới, Phó Trưởng ban Thống kê Dân số và Lao động, Cục Thống kê, Bộ Tài chính Nguyễn Huy Minh cho rằng, cần phải đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có chất lượng giáo dục đào tạo, trọng tâm là chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị, thay đổi phương thức giáo dục đào tạo, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; gắn kết đào tạo với thực tiễn; đào tạo kỹ năng chuyên sâu, giúp người lao động đáp ứng nhu cầu thị trường lao động; ứng dụng công nghệ trong đào tạo.
Đặc biệt, đảm bảo quy mô, cơ cấu lao động có việc làm theo ngành phù hợp, gắn chiến lược phát triển nhân lực với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội; xây dựng cơ chế chính sách để chuyển lao động khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao… Cùng với đó, xây dựng và phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động hiệu quả để kết nối cung cầu lao động lao động, kỹ năng và việc làm sẽ hỗ trợ hoạch định chính sách hiệu quả; mở rộng hợp tác nâng cao chất lượng nguồn lao động, nghiên cứu học tập các mô hình đào tạo phát triển nguồn nhân lực của các nước phát triển.
![]() |
Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty May 10 Bạch Thăng Long |
Chia sẻ tại Tọa đàm, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty May 10 Bạch Thăng Long nhấn mạnh, nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững. Việc xây dựng Chiến lược phát triển nhân lực, cải thiện môi trường làm việc, nâng cao đào tạo và ứng dụng công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế hiệu quả hơn. Vì vậy, trong thời gian tới, cần xây dựng Chiến lược phát triển nguồn nhân lực dài hạn; định hướng đào tạo và phát triển nhân lực gắn với xu hướng công nghệ và thị trường; tăng cường hợp tác với các trường đại học, cao đẳng để đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu doanh nghiệp.
Đồng thời, cải thiện chế độ đãi ngộ và môi trường làm việc với chính sách lương, thưởng hấp dẫn hơn để thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao; cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao phúc lợi để tăng sự gắn bó của người lao động. Đặc biệt, cần ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý nhân lực; hỗ trợ tài chính và ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp tổ chức đào tạo nội bộ hoặc liên kết với các trường đào tạo nghề…
![]() |
TS. Trịnh Thu Nga, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước và Lao động, Bộ Nội vụ |
Theo TS. Trịnh Thu Nga, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước và Lao động, Bộ Nội vụ, chiến lược phát triển nhân lực quốc gia nói chung và của từng địa phương nói riêng trong 10 năm tới phải chú trọng giải quyết vấn đề nguồn nhân lực chủ động thích ứng để tiếp cận với thành tựu của khoa học công nghệ mới trong cách mạng công nghiệp 4.0 và hóa giải thách thức của nó; đổi mới giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp để nhanh chóng tạo ra đội ngũ nhân lực đủ trình độ và chất lượng cao có khả năng thích ứng.
Theo đó, giai đoạn 2026-2030, chúng ta cần tập trung nhiều hơn cho cải cách hệ thống giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp để trực tiếp cung cấp nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế và xã hội, chú trọng nâng cao chất lượng các chương trình giáo dục kỹ thuật và dạy nghề để theo kịp sự phát triển của cách mạng khoa học công nghiệp 4.0 trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu mới của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tăng mức và tỷ trọng đầu tư cho phát triển nhân lực trong tổng đầu tư toàn xã hội. Mở rộng xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực chất lượng cao, nhất là vốn doanh nghiệp, vốn FDI vào đào tạo nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực, ngành nghề mà trong nước chưa có khả năng đào tạo.
Phát biểu kết thúc Tọa đàm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Lâm Văn Đoan cảm ơn các ý kiến góp ý của các đại biểu; cho rằng các ý kiến đã cung cấp thêm nhiều thông tin, dữ liệu thống kê, góp phần làm rõ hơn nhiều vấn đề liên quan đến nhân lực chất lượng cao, đây sẽ là cơ sở hữu ích giúp Đoàn giám sát có cơ sở đưa ra các đánh giá chính xác, từ đó có kiến nghị chính sách phù hợp, sát với thực tiễn.