Chung kết Cuộc thi Vua Marketing 2020: Đêm thăng hoa cảm xúc và trí tuệ Vua Marketing - Lộ diện Top 4 nhân tố bí ẩn Vua Marketing 2020 - Lộ diện top 8 bản lĩnh |
Cùng với xu hướng của thế giới, Digital Marketing được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng. Trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, Digital Marketing được các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn và ngày càng phổ biến. Đại dịch Covid 19, làm cho các hoạt động marketing trực tiếp của doanh nghiệp gặp khó khăn. Ngược lại, đã tạo điều kiện cho Digital Marketing thể hiện sức mạnh vả trở thành một nhu cầu cấp thiết trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Covid 19 đã tạo ra điều kiện để Digital Marketing tại Việt Nam có bước phát triển mạnh, có thể nói là “bùng nổ” phát triển Digital Marketing.
Bùng nổ Digital Marketing tại Việt Nam |
Đầu những năm 2000, tại Việt Nam mới chỉ có khoảng 3% doanh nghiệp vừa và nhỏ quan tâm đến thương mại điện tử, còn mơ hồ về marketing kỹ thuật số, trong số 56.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, có tới 90% không có chút khái niệm nào về thương mại điện tử và marketing kỹ thuật số. 48% doanh nghiệp sử dụng Internet chỉ để gửi và nhận thư điện tử. 33% doanh nghiệp vừa và nhỏ có kết nối Internet nhưng không dùng nó để hỗ trợ cho việc kinh doanh và 50% doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có khoảng 4 người biết gửi và nhận thư điện tử email. Rất ít các doanh nghiệp xây dựng website riêng, nếu có chỉ để cung cấp thông tin, quảng cáo giới thiệu sản phẩm. Ngoài ra các kênh khác của marketing kỹ thuật số như SMS Marketing, Mobile Marketing, bảng hiệu kĩ thuật số thì hầu hết các doanh nghiệp chưa có ý niệm gì về các kênh kỹ thuật số này.
Theo kết quả khảo sát của Bộ Công Thương với 2.000 doanh nghiệp (2016), 100% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã trang bị máy tính và trung bình mỗi doanh nghiệp có 25,8 máy tính. Có 98% doanh nghiệp đã kết nối Internet dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó 96% là kết nối bằng bang thông rộng (ADSL) và đường truyền riêng (leased line). Các doanh nghiệp cũng đã chú trọng tới việc khai thác ứng dụng cơ bản của Marketing marketing kỹ thuật số là thư điện tử (email) với 86% doanh nghiệp sử dụng email cho mục đích kinh doanh, trong đó tỷ lệ sử dụng của các doanh nghiệp lớn là 95%, doanh nghiệp nhỏ và vừa là 78%. Hầu hết các doanh nghiệp đã quan tâm đến các việc bán hàng trực tuyến, nghiên cứu và tìm hiểu thị trường, đặc biệt là quảng cáo, hỗ trợ khách hàng thông qua các kênh kỹ thuật số. Hiệu quả của marketing kỹ thuật số cũng đã được ghi nhận với 64% doanh nghiệp nhỏ bán hàng qua mạng đã tăng lợi nhuận và doanh thu. 48% doanh nghiệp khảo sát cho rằng marketing kỹ thuật số đã giúp họ mở rộng phạm vi hoạt động xét về mặt địa lý. Theo ước tính, năm 2010, tỷ trọng đầu tư vào marketing kỹ thuật số trong tổng ngân sách marketing tiếp tục tăng tại nhiều quốc gia phát triển. Riêng doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp có thể đầu tư từ 7-10% ngân sách marketing cho marketing kỹ thuật số.
Khảo sát của Q&Me (2020) trên 135 doanh nghiệp (102 thương hiệu, 20 agency, 13 công ty truyền thông) cho thấy Facebook đang là kênh truyền thông phổ biến nhất khi hầu hết doanh nghiệp đều sở hữu tài khoản riêng trên nền tảng này. Biểu đồ 1 chỉ rõ 96% doanh nghiệp hiện nay sử dụng Facebook, theo sau là Youtube với 75%. Trong khi Instagram và Zalo chỉ có 49% và 32% doanh nghiệp sử dụng.
Biểu đồ 1: Các nền tảng marketing kỹ thuật số phổ biến hiện nay Q&Me (2020)
Tuy nhiên, khi chuyển sang Video trực tuyến hiện được coi là một trong những hoạt động xu hướng của marketing kỹ thuật số với hơn 83% doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng, Youtube đã vượt Facebook để trở thành nền tảng phổ biến nhất cho video trực tuyến (95%) (Biểu đồ 2)
Biểu đồ 2: Nền tảng marketing kỹ thuật số phổ biến cho video trực tuyến, Q&Me (2020)
Khảo sát của Q&Me (2020) cũng chỉ ra rằng trong số các hoạt động Marketing kỹ thuật số, doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào quảng cáo trên mạng xã hội là nhiều nhất (Biểu đồ 3)
Biểu đồ 3: Các hoạt động marketing kỹ thuật số phổ biến năm 2017 và 2019, Q&Me (2020)
84% doanh nghiệp được khảo sát quảng cáo trên mạng xã hội. Theo sau là hình thức quảng cáo tìm kiếm (SEM) và quảng cáo hiển thị (GDN) với tỷ lệ sử dụng lần lượt là 52% và 46%. Có thể nói, quảng cáo trên mạng xã hội là hình thức phổ biến với mọi loại hình và quy mô của công ty. Theo thống kê, có tới 94% doanh nghiệp lớn và vừa chi tiêu cho loại hình này, con số này là 79% với doanh nghiệp nhỏ. Trong đó, những hoạt động marketing kỹ thuật số còn lại thường được doanh nghiệp lớn và vừa sử dụng. Đó là lý do Influencer Marketing được sử dụng với tỷ lệ không cao, 35% doanh nghiệp lớn và vừa và 11% với doanh nghiệp nhỏ. So với năm 2017, hình thứ SEM và Influencer Marketing đang ngày càng phổ biến hơn, trong khi đó, quảng cáo trên mạng xã hội vẫn giữ vững vị trí đầu tiên 3 năm gần đây (Biểu đồ 3).
Khảo sát Chi tiêu của các nhà quản trị marketing 2015-2016 của Gartner cho thấy marketing kỹ thuật số dần trở nên phổ biến, khoảng 98% các nhà quản trị marketing cho biết đang đưa các phương pháp kỹ thuật số vào hoạt động marketing (Hà Nguyễn, 2016). Ngoài ra, 73% các nhà quản trị marketing hiện nay chịu hoàn toàn hoặc chia sẻ trách nhiệm về lỗ lãi của hoạt động marketing. Những con số nêu trên cho thấy các nhà quản trị marketing và bộ phận marketing của họ đang có nhiều trách nhiệm hơn trong việc thúc đẩy hiệu quả kinh doanh từ những nỗ lực marketing kỹ thuật số.
Khảo sát của Q&Me (2020) về mục tiêu của chiến lược marketing kỹ thuật số của các doanh nghiệp Việt Nam trên nền tảng Facebook cho thấy Facebook được sử dụng để phục vụ mục đích phát triển thương hiệu (branding) và hỗ trợ khách hàng với lần lượt tỷ lệ là 90% và 73% (Biểu đồ 4). Ngoài ra, những mục tiêu phổ biến khác mà doanh nghiệp sử dụng Facebook là quan hệ công chúng (PR), quảng bá chiến dịch, và tăng lượng truy cập.
Biểu đồ 4: Mục tiêu của marketing kỹ thuật số trên nền tảng Facebook, Q&Me (2020)
Bên cạnh đó, doanh nghiệp sử dụng quảng cáo trên Facebook với mục đích chính là gia tăng số lượng tìm kiếm với 84% doanh nghiệp sử dụng. Những mục đích phổ biến khác là tăng lượng truy cập vào trang web, gia tăng lượng Thích/Theo dõi cho trang Facebook. Có thể hiểu, doanh nghiệp sử dụng quảng cáo để tăng tỷ lệ chuyển đổi như: lượt tra cứu, lượng truy cập website, số lượt thích, theo dõi cho trang.
Nhìn nhận về ưu và nhược điểm của marketing kỹ thuật số, các doanh nghiệp nhận định ưu điểm lớn nhất của marketing kỹ thuật số là khả năng “tiếp cận khách hàng chính xác hơn (88%)”, “đo lường hiệu suất dễ dàng (82%)” và “quản lý nội dung dễ dàng (81%)” (Biểu đồ 5). Mặt khác, nhược điểm chủ yếu của marketing kỹ thuật số chính là khả năng tiếp cận. Cụ thể, hai yếu tố “khó lòng tiếp cận nhóm khách hàng lớn tuổi” và “khó tiếp cận khu vực nông thôn” là hai nhược điểm lớn nhất. Điều này là do Internet chưa thực sự phổ biến với hai nhóm khách hàng này. Tại khu vực nông thôn, người dân tiếp nhận thông tin chủ yếu vẫn qua các kênh truyền thống (truyền thanh, báo đài). Tuy nhiên, so sánh với năm 2018, các nhược điểm của marketing kỹ thuật số đang có dấu hiệu cải thiện.
Biểu đồ 5: Ưu điểm của marketing kỹ thuật số, Q&Me (2020)
So với kết quả đánh giá năm 2000, hiện nay, hoạt động Digital Marketing có bước nhảy vọt và có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Các doanh nghiệp nhận thấy tầm quan trọng của Digital Marketing và xu hướng sử dụng Digital Marketing đang rất cao. Trong thời gian tới, khi các doanh nghiệp đồng loạt sử dụng, Digital Marketing sẽ còn “bùng nổ” hơn nữa.