Ngành dừa sẵn sàng chinh phục cột mốc tỷ đô Thực hư chuyện ngành dừa nguy cơ thiếu nguyên liệu nghiêm trọng Xuất khẩu vượt tỷ USD, ngành dừa vẫn ngổn ngang những mối lo |
Nóng thị trường nhưng nguội nguồn cung
![]() |
Người trồng dừa áp dụng phương pháp canh tác hữu cơ, chú trọng chăm sóc và bón phân hợp lý để nâng cao chất lượng và đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. |
Thị trường dừa tươi trong nước đang chứng kiến một “cơn sốt” hiếm thấy khi giá thu mua tại vườn tại “thủ phủ” Bến Tre có thời điểm lên đến 250.000 đồng/chục (12 trái). Cùng với đó, xuất khẩu dừa tươi ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, đặc biệt tại các thị trường khó tính như Mỹ, Trung Quốc, Australia và New Zealand.
Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam, dừa tươi Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh: hương vị đặc trưng, dễ bảo quản, thuận tiện vận chuyển và có thể chế biến thành nhiều dạng sản phẩm như nước dừa đóng hộp, sữa dừa, dừa khô hoặc dùng trong mỹ phẩm và dược liệu. Sự ưa chuộng của người tiêu dùng quốc tế đã kéo theo nhu cầu nội địa tăng cao, góp phần đẩy giá dừa lên mức chưa từng có.
Tuy nhiên, trái ngược với diễn biến sôi động của thị trường, nguồn cung lại đang trong tình trạng “nguội lạnh”. Ông Cao Bá Đăng Khoa – Tổng Thư ký Hiệp hội Dừa Việt Nam – cảnh báo năm nay ngành dừa đang phải đối mặt với một vụ mất mùa nghiêm trọng. Hiện tượng nắng nóng kéo dài, hạn mặn vào đúng giai đoạn dừa trổ bông khiến tỷ lệ đậu trái giảm mạnh. Đặc biệt, xâm nhập mặn trong mùa khô 2024–2025 đã khiến năng suất tại nhiều vùng chuyên canh tụt dốc chưa từng có.
Mất mùa khiến nguồn nguyên liệu rơi vào khan hiếm. Bà Lê Hồng Ngọc Anh – Giám đốc Công ty Coco Hihi (Bến Tre) – cho biết doanh nghiệp của bà buộc phải tạm ngưng hoạt động nhà máy vì không có đủ dừa tươi đạt chuẩn để phục vụ xuất khẩu. “Chúng tôi đang tạm thời chuyển hướng sang mặt hàng bưởi để duy trì hoạt động”, bà Ngọc Anh nói. Tình trạng tương tự cũng diễn ra tại nhiều doanh nghiệp khác. Ông Nguyễn Đình Tùng – CEO Vina T&T – cho hay sản lượng dừa hiện tại của công ty chỉ đủ đáp ứng khoảng hai phần ba số đơn hàng.
Ở góc độ thị trường, giá dừa nội địa cao cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Ông Tom Nguyen – Giám đốc Công ty TNHH Nông sản Quốc tế Việt Nam – chia sẻ: “Chúng tôi chỉ còn giữ được một số thị trường cao cấp như Australia, New Zealand – nơi có nhu cầu ổn định và giá tốt. Còn thị trường Trung Quốc thì hầu như không thể xuất khẩu vì dừa Thái Lan và Philippines có giá mềm hơn”.
Việt Nam hiện có khoảng 200.000 ha trồng dừa, chủ yếu tập trung tại Bến Tre, với sản lượng trung bình đạt 2 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, diện tích này đang gặp thách thức lớn trước sự bùng phát của sâu đầu đen – loài gây hại ngoại lai có sức tàn phá mạnh và tốc độ lây lan nhanh. Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Bến Tre, nếu không kiểm soát kịp thời, sâu đầu đen sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất của toàn vùng.
Bên cạnh đó, tập quán canh tác lạc hậu cũng là nguyên nhân khiến cây dừa dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu và sâu bệnh. Ông Khoa cho biết: “Ở nhiều nơi, người dân chỉ khai thác mà không đầu tư chăm bón cho cây. Ngoài Bến Tre còn duy trì thói quen bón phân, chăm sóc thường xuyên thì các địa phương khác gần như bỏ ngỏ”.
Chuyển hướng chuỗi cung ứng bền vững
![]() |
Giống dừa bản địa với hương vị đặc trưng được nghiên cứu và phát triển nhằm mở rộng chủng loại sản phẩm phục vụ thị trường xuất khẩu. |
Trước những bất cập nói trên, các chuyên gia cho rằng ngành dừa Việt Nam cần một chiến lược phát triển bền vững, từ gốc rễ là cây giống, vùng trồng đến chuỗi chế biến và xuất khẩu. Theo ông Đặng Phúc Nguyên – Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam – điểm yếu lớn nhất hiện nay là ngành chưa có chuỗi liên kết ổn định giữa nông dân – doanh nghiệp – nhà máy chế biến. “Chúng ta đang khai thác theo cách manh mún, không có vùng nguyên liệu tập trung, chưa xây dựng thương hiệu quốc gia cho trái dừa, nên rất khó phát triển dài hạn”, ông nói.
Một hướng đi quan trọng đang được Bến Tre – tỉnh có diện tích dừa lớn nhất nước – triển khai là mở rộng diện tích trồng dừa hữu cơ. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, năm 2025 Bến Tre sẽ duy trì và mở rộng 20.000 ha dừa hữu cơ, cùng 2.000 ha đủ điều kiện cấp mã số vùng trồng phục vụ chế biến và xuất khẩu. Tuy nhiên, con số này hiện chỉ chiếm hơn 12% tổng diện tích trồng dừa toàn quốc. Việc đẩy nhanh tỷ lệ canh tác hữu cơ không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm, mà còn góp phần giải quyết bài toán môi trường và dư lượng hóa chất – yếu tố ngày càng được các thị trường nhập khẩu quan tâm.
Để hỗ trợ người trồng dừa, Hiệp hội Dừa Việt Nam đang khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất phân bón nghiên cứu dòng sản phẩm chuyên dùng cho cây dừa, đặc biệt là phân hữu cơ. Việc chuyển đổi thói quen từ bón phân hóa học sang hữu cơ không chỉ giúp cây khỏe mạnh hơn, giảm nguy cơ suy kiệt, mà còn tạo ra sản phẩm an toàn, có giá trị gia tăng cao hơn.
Một hướng đi tiềm năng nữa là đẩy mạnh nghiên cứu, nhân rộng và thương mại hóa các giống dừa đặc sản địa phương như dừa Tam Quan (Bình Định), dừa Ninh Đa (Khánh Hòa), vốn có thương hiệu truyền thống nhưng chưa được chú trọng đúng mức trong chuỗi xuất khẩu. Hiện tại, dù Việt Nam có 16 loại dừa uống nước, nhưng mới chỉ có 5 loại được khai thác để xuất khẩu, chủ yếu là dừa xiêm lùn, xiêm xanh, dừa éo, dừa dứa và dừa ta uống nước.
Về dài hạn, muốn hướng tới mục tiêu kim ngạch xuất khẩu dừa đạt 1 tỷ USD, ngành cần tập trung đồng bộ từ khâu xây dựng thương hiệu, đầu tư vùng nguyên liệu, tiêu chuẩn hóa quy trình trồng trọt đến mở rộng thị trường tiêu thụ. Trong đó, việc phát triển thương hiệu quốc gia cho dừa Việt là đòn bẩy chiến lược, vừa nâng cao giá trị nông sản, vừa giảm sự phụ thuộc vào thị trường dễ biến động như Trung Quốc.
Giá dừa tăng là tín hiệu đáng mừng, nhưng không thể là cơ sở để lạc quan nếu ngành dừa vẫn đối mặt với thiếu nguyên liệu, sâu bệnh và sản xuất manh mún. Cơn sốt dừa hiện tại là cơ hội để ngành dừa Việt Nam nhìn lại và tái cấu trúc toàn diện, xây dựng chuỗi giá trị bền vững, có thương hiệu, nhằm đảm bảo vị thế lâu dài trên thị trường quốc tế.