Chủ tịch Hồ Chí Minh sửa bản tin tại Phủ Chủ tịch. |
Khai sinh nền báo chí cách mạng
Năm 1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình lao động, học hỏi và giác ngộ cách mạng, Bác bắt đầu quan tâm đến một phương tiện thông tin phổ biến, nhiều tác dụng là báo chí. Cuối năm 1917, khi trở lại Pháp, tuy vốn ngôn ngữ chưa đủ để viết báo nhưng với tinh thần quyết tâm cao, Bác Hồ tự học tiếng và học làm báo. Những ngày đầu, Người được Longuet - cháu ngoại của Karl Marx, làm việc ở báo Sinh hoạt công nhân - nhiệt tình chỉ dẫn nghiệp vụ báo chí đơn giản. Ban ngày Bác đi làm, tối tham gia mít tinh, biểu tình, vận động cách mạng, đêm lại vẫn ngồi cặm cụi viết báo.
Ngày 28/6/1919, hội nghị các nước thắng trận trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất khai mạc tại Versailles. Thay mặt những Việt kiều, Bác viết và gửi đến hội nghị Bản yêu sách 8 điểm đòi quyền lợi cho nhân dân Việt Nam, trong đó có cả quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí... Đây cũng là bài viết nổi tiếng đầu tiên của Bác Hồ được cơ quan ngôn luận Đảng Xã hội Pháp đăng dưới nhan đề Quyền các dân tộc.
Năm 1921, Bác Hồ (với tên Nguyễn Ái Quốc) cùng một số chính khách thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa và năm 1922 lập ra Le Paria (Người cùng khổ) là cơ quan ngôn luận của Hội. Le Paria với số đầu xuất bản ngày 1/4/1922 đã thể hiện tinh thần đoàn kết và giải phóng con người. Nguyễn Ái Quốc trở thành nòng cốt của tờ báo với 38 bài viết, vừa là biên tập viên chính, vừa là phóng viên, nhiếp ảnh viên kiêm việc tổ chức, quản lý, phát hành.
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu trong phái bộ của Quốc tế Cộng sản do Borodin dẫn đầu giúp đỡ Chính phủ Tôn Trung Sơn. Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc khẩn trương chuẩn bị “mảnh đất” để “gieo” những “hạt giống đỏ” đầu tiên cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức và con người cho việc thành lập một chính đảng chân chính cho cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc rất tâm đắc ý kiến của V.I.Lenin về việc phải thành lập một tờ báo chính trị của Đảng để tiến hành một cách có hệ thống cuộc tuyên truyền cổ động hết sức có nguyên tắc và toàn diện; … vai trò của tờ báo không phải chỉ đóng khung ở chỗ phổ biến tư tưởng, giáo dục chính trị và thu hút những bạn đồng minh chính trị.
Tờ báo sẽ không chỉ như một tuyên truyền viên đến với quần chúng và còn là sự hiện diện cụ thể của một tổ chức cách mạng. Kinh nghiệm hoạt động trong phong trào cách mạng quốc tế đã làm cho Người hiểu sâu sắc điều đó. Là cơ quan của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn Ái Quốc chọn tên tờ báo là Thanh niên.
Trong số 1 nổi bật có các bài: Nhiệm vụ của một người lính (ký tên Đội trưởng), Vì sao chúng ta phải đoàn kết… Báo Thanh niên thường có các chuyên mục: xã hội, bình luận, thơ ca, phê bình, trả lời bạn đọc…
Nguyễn Ái Quốc là cây bút chủ lực từ tháng 6/1925 đến tháng 4/1927 khi Người phải bí mật rời Quảng Châu do cuộc phản biến của Tưởng Giới Thạch. Người là linh hồn của tờ báo, với sự trợ giúp của những người em, học trò như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong… cho đến Lý Tự Trọng khi đó mới 16 tuổi. Trên báo người ta thấy nhiều bút danh khác nhau của Nguyễn Ái Quốc: Hạ Sĩ, Đội trưởng, Hương Mộng, HT, HL…
Báo Thanh niên in xong, được chuyển đến Hồng Kông (Trung Quốc), Thượng Hải để từ đó chuyển về nước bằng hệ thống giao liên bí mật trên các tuyến tàu thủy. Công việc chuyển báo do các thủy thủ người Việt yêu nước đảm nhận. Nhờ có hệ thống giao liên hoạt động tốt, hình thức báo lại nhỏ gọn, báo Thanh niên đã đến được cả ba miền ở Việt Nam, thậm chí sang cả Camphuchia và Lào…
Điều đáng chú ý là một số người không phải là hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cũng tìm đọc báo Thanh niên. Mật thám Pháp ở Đông Dương theo dõi báo Thanh niên rất chặt chẽ. Tuy cố gắng ngăn chặn, bắt và tiêu hủy được một số tờ báo nhưng mật thám Pháp cũng không thể ngăn chặn hoàn toàn báo Thanh niên đến với phong trào cách mạng.
Thanh niên là tờ báo tiếng Việt đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp chỉ đạo xuất bản được 88 số báo Thanh niên đầu tiên. Sau khi Người buộc phải rời Quảng Châu (4/1927), báo Thanh niên còn tiếp tục được xuất bản thêm trong một thời gian dài (có thể đến năm 1929).
Trong số những tờ báo cách mạng Việt Nam, báoThanh niên ra đời sớm nhất, xuất bản được nhiều số nhất, khoảng 200 số, kể cả so với các báo công khai khác của Đảng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 - 1939): Dân chúng ra được 80 số, báo Lao động ra được 30 số, báoTiền phong chỉ ra được 8 số…v.v.
Báo Thanh niên đã hoàn thành sứ mệnh góp phần chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau đó là các đoàn thể cách mạng trong Mặt trận Dân tộc thống nhất ở Việt Nam.
Lời dạy của Bác vẫn còn nguyên giá trị với người làm báo hiện đại
Báo chí là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng, văn hoá của Đảng. |
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về người làm báo cách mạng và là người thầy vĩ đại của báo chí cách mạng Việt Nam. Người đã có trên 2.000 bài báo thuộc các thể loại, viết cho hơn 50 tờ báo và tạp chí ở trong và ngoài nước, bằng nhiều thứ tiếng, thể hiện tư tưởng cách mạng, yêu nước thương dân và đạo đức cao cả, với ngôn ngữ giản dị, bình dân, với phong cách đa dạng và hấp dẫn, có sức lay động trái tim và khối óc của hàng trăm triệu người trên toàn thế giới. Đồng thời, những lời dạy của Bác về công tác báo chí là cả một kho tàng vô giá về lý luận báo chí cách mạng Việt Nam.
Tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam (16/4/1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn các nhà báo: “Tất cả những người làm báo phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được”.
Người hoạt động báo chí là hoạt động chính trị-xã hội bằng nghiệp vụ báo chí của mình, nên nhiệm vụ của báo chí là phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, nhà báo phải là chiến sĩ cách mạng trên mọi mặt trận. Do đó, lập trường chính trị vững chắc là tiêu chuẩn và là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi người làm báo.
Đến Đại hội đại biểu lần thứ III Hội nhà báo Việt Nam, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta, cũng là nhiệm vụ của báo chí ta”.
Báo chí là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng, văn hoá của Đảng; là một trong những công cụ sắc bén, hiệu quả để xây dựng, bồi đắp nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng; tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, động viên, cổ vũ, tổ chức nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, là chiếc cầu hữu nghị để Việt Nam mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới. Xuất phát từ vai trò to lớn, quan trọng của báo chí đối với đời sống xã hội, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Báo chí có tính giai cấp, tính đảng, tính nhân dân, tính văn hóa. Đảng cách mạng phải lãnh đạo báo chí cách mạng, đó là nguyên tắc bất di bất dịch. Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: “Đảng ta mạnh vì Đảng ta tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, suốt từ trên xuống dưới. Tờ báo của Đảng có nhiệm vụ làm cho tư tưởng và hành động thông suốt và thống nhất”.
Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 8/12/1958 khẳng định: Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, Bác Hồ dạy, “... cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hoá; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương của Đảng, chính sách của Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động...”
Tờ báo Đảng là như những lớp huấn luyện giản đơn, thiết thực và rộng khắp. Nó dạy bảo chúng ta những điều cần biết làm về tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công tác. Hàng ngày nó giúp nâng cao trình độ chính trị và nǎng suất công tác của chúng ta. Nếu cứ cắm đầu làm việc, mà không xem, không nghiên cứu báo Đảng, thì khác nào nhắm mắt đi đêm; nhất định sẽ lúng túng, vấp váp, hỏng việc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tính trung thực của nhà báo là một tiêu chuẩn đạo đức rất quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp báo chí.
Nhà báo chân chính phải chuyên nghiệp phải là người trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dạy: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn” và “chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”. Đồng thời, Người cũng đòi hỏi các nhà báo trong mọi trường hợp khen cũng như chê đều với động cơ trong sáng, khách quan, không thể viết báo vì mục đích vụ lợi, cá nhân, ích kỷ. Người cho rằng “một tờ báo mà không được đại đa số quần chúng ham muốn thì không xứng đáng là một tờ báo”.
Báo chí phải đem đến cho công chúng niềm tin ở sự thật, tin ở sự nghiêm minh của pháp luật, đặc biệt tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào chính sách, pháp luật của Nhà nước, truyền thống cách mạng của nhân dân ta. Người làm báo cách mạng không những phải làm tròn trách nhiệm nghĩa vụ của một người cách mạng mà phải gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công dân, làm tốt trách nhiệm xã hội, và phải luôn trau dồi nghệ thuật tuyên truyền để thông điệp lan tỏa sâu rộng trong công chúng.
Trong bài Người tuyên truyền và cách tuyên truyền đăng trên báo Sự thật số 79 (từ ngày 26/6/1947 đến ngày 9/7/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”. Muốn vậy, phải nắm vững đối tượng được tuyên truyền. Nếu người tuyên truyền không điều tra, không phân tích, không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy, nhất định thất bại. Người cũng lưu ý rằng, dân chúng không nhất luận như nhau. Đối với mỗi tầng lớp đối tượng, Người yêu cầu phải có phương thức tuyên truyền thích hợp và phải chú trọng ưu tiên cho lớp đối tượng có trình độ nhận thức, văn hóa thấp. Bởi vì đối tượng này hiểu được thì các đối tượng khác cũng nắm bắt dễ dàng.
Mục đích nói và viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm cho lý luận trở nên gần gũi, dễ hiểu với tất cả mọi người. Người dùng cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực và phê phán thói “ba hoa”, kiểu “thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng các thành tích, mà ít hoặc không nói đúng mức đến khó khăn và khuyết điểm của ta”. Người dạy: “Nêu cái hay, cái tốt, thì phải có chừng mực, chớ phóng đại. Có thế nào nói thế ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường viết rất ngắn gọn nhưng có ý nghĩa khái quát cao. Chỉ qua 9 chữ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Bác đã khái quát được cả 3 giai đoạn đầy biến động của đất nước. Nhiều câu được cô đúc lại như châm ngôn: “Nước lấy dân làm gốc”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”… Chính vì vậy, những tư tưởng lớn của Người trở nên dễ thuộc, dễ nhớ, nhanh chóng đi vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Suốt đời, Hồ Chí Minh là người cầm bút chiến đấu trên mặt trận văn hóa, báo chí với văn phong đa dạng nhiều sắc thái mà điểm nổi bật là tính quần chúng, cách suy nghĩ và diễn đạt dân gian, dễ hiểu, đi sâu vang vọng trong lòng người, gợi mở những tư tưởng lớn lao, thúc đẩy những việc tốt đẹp, bằng những lời lẽ giàu hình tượng, nói lên được những điều lớn bằng những chữ nhỏ”.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong gần một thế kỷ qua đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí cách mạng Việt Nam đã có bước trưởng thành vượt bậc về mọi mặt, có những đóng góp to lớn, quan trọng làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chức năng, nhiệm vụ, tính chất của báo chí cách mạng; về vai trò, nghĩa vụ, đạo đức của người làm báo; về nghệ thuật trong “cách viết” để làm nên một tác phẩm báo chí và tờ báo có sức lay động đối với công chúng vẫn vẹn nguyên giá trị cho những người làm báo hôm nay.