![]() |
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam đa dạng về chất liệu nhưng thiếu ý tưởng thiết kế mới, làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. |
Nguyên liệu và sáng tạo còn là điểm nghẽn của xuất khẩu
Là ngành hàng giàu tiềm năng, thủ công mỹ nghệ Việt Nam hiện đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt kim ngạch khoảng 3,5 tỷ USD mỗi năm với tốc độ tăng trưởng đều đặn 10%. Tuy nhiên, trước biến động phức tạp của thị trường toàn cầu, ngành này đang đối diện hàng loạt lực cản – cả về phía đầu ra và đầu vào.
Về thị trường tiêu thụ, các thị trường chủ lực như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản – vốn chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu – đang ghi nhận mức sụt giảm đáng kể. Đơn cử, nhóm sản phẩm mây tre đan dù chiếm 31% xuất khẩu sang EU, 20% sang Hoa Kỳ và 9% sang Nhật Bản, nhưng đều chịu áp lực cạnh tranh khốc liệt, đặc biệt từ hàng Trung Quốc có giá thành thấp và mẫu mã bắt mắt hơn.
Ở chiều ngược lại, nguồn nguyên liệu đầu vào cũng đang là “nút thắt cổ chai” trong sản xuất. Theo khảo sát mới nhất của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội, mỗi năm các làng nghề tại Thủ đô tiêu thụ khoảng 6.800 tấn nguyên liệu như mây, tre, luồng, nứa, vầu, chít... Một doanh nghiệp sản xuất trung bình cần khoảng 50 tấn nguyên liệu/tháng, trong khi mỗi hộ gia đình sản xuất cũng cần đến 20 tấn. Các làng nghề gốm sứ sử dụng đến 620.000 tấn đất sét, cao lanh; sơn mài cần 4.000 tấn và ngành gỗ tiêu thụ hơn 1 triệu m³ gỗ mỗi năm.
Dù nhu cầu cao, nhưng nguồn cung nguyên liệu vẫn thiếu tính ổn định, chưa hình thành được các vùng nguyên liệu chuyên biệt, hiệu quả sử dụng thấp và còn xảy ra lãng phí. Đặc biệt, ngành thủ công mỹ nghệ hiện vẫn chưa phát huy hết tiềm năng sáng tạo – khi phần lớn sản phẩm còn thiếu ý tưởng thiết kế mới, thiếu yếu tố độc đáo để tạo giá trị gia tăng và nâng tầm thương hiệu trên thị trường quốc tế.
Tại Hội nghị kết nối cung cầu nguyên liệu do Sở Công Thương Hà Nội tổ chức ngày 2/8 vừa qua, ông Vương Đình Thanh – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội – cho biết: “Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam năm 2024 chỉ đạt hơn 2 tỷ USD – thấp hơn rất nhiều so với tiềm năng và so với các năm trước. Ngành đang rất cần một cú hích lớn để phục hồi và bứt phá.”
Liên kết vùng nguyên liệu tạo lực bật cho chuỗi giá trị
![]() |
Nghệ nhân thủ công tham gia sản xuất, góp phần đảm bảo nguồn cung nguyên liệu và phát triển chuỗi giá trị ngành hàng bền vững. |
Trước thực trạng thiếu hụt đầu vào và áp lực tái cơ cấu sản xuất, xu hướng liên kết chuỗi trong ngành thủ công mỹ nghệ ngày càng trở nên cấp thiết. Tại Hội nghị kết nối cung cầu nguyên liệu tổ chức trong khuôn khổ Vietnam OCOPEX 2025, Hà Nội đã chủ động bắt tay với nhiều tỉnh phía Bắc nhằm xây dựng mạng lưới cung ứng bền vững cho làng nghề và doanh nghiệp.
Nhiều địa phương như Bắc Ninh, Nam Định, Thái Nguyên, Phú Thọ mới (được sáp nhập bởi Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ) đã giới thiệu tiềm năng phát triển vùng nguyên liệu quy mô lớn như mây, tre, gỗ, đất cao lanh… Các doanh nghiệp Hà Nội, ngược lại, thể hiện rõ nhu cầu ổn định về nguồn nguyên liệu đầu vào, dịch vụ gia công và chế biến bán thành phẩm. Sự kết nối cung – cầu lần này vì vậy được kỳ vọng sẽ không dừng ở trao đổi thông tin mà đi vào hợp tác thực chất, hai chiều.
Theo Sở Công Thương Hà Nội, thành phố đang tiến hành rà soát lại vùng nguyên liệu tại chỗ, đồng thời xúc tiến mở rộng chuỗi cung ứng từ các tỉnh khác và cả quốc tế. Việc hình thành các chợ đầu mối chuyên biệt, thúc đẩy chuyên môn hóa cung ứng nguyên liệu và nâng cao hiệu quả sử dụng là định hướng chiến lược nhằm giảm lệ thuộc, giảm lãng phí và tăng khả năng thích ứng thị trường cho các làng nghề.
Các chuyên gia ngành công thương cho rằng, để thủ công mỹ nghệ Việt Nam phát triển bền vững, bên cạnh việc ổn định nguồn cung, doanh nghiệp cần đẩy mạnh đầu tư vào thiết kế sáng tạo, nâng cấp thương hiệu và cải tiến kỹ thuật chế tác. Thị trường hiện đại không chỉ yêu cầu sản phẩm đẹp, mà còn đặt nặng yếu tố bản sắc văn hóa, thông điệp môi trường và khả năng cá nhân hóa cao.
Một điểm sáng đáng ghi nhận là sự gia tăng đơn hàng từ các thị trường mới nổi như Thái Lan, Philippines, Indonesia – với mức tăng gần 15% thời gian gần đây. Đây là tín hiệu tích cực cho thấy cơ hội mở rộng thị trường đang mở ra, nếu sản phẩm Việt đáp ứng tốt yêu cầu mẫu mã, chất lượng và đặc biệt là đảm bảo nguồn cung ổn định.
Việc tổ chức các hội nghị kết nối cung cầu như vừa qua không chỉ tháo gỡ khó khăn đầu vào cho doanh nghiệp Hà Nội, mà còn góp phần tạo sinh kế bền vững cho các hộ sản xuất vùng nguyên liệu. Khi chuỗi liên kết từ nguyên liệu – sản xuất – tiêu thụ được hình thành bài bản, ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam sẽ có thêm động lực mới để vươn xa trên bản đồ xuất khẩu toàn cầu.