Công nghệ và cộng đồng: Hai trụ cột giữ hồn di sản số Khỏe mạnh hơn mỗi ngày nhờ công nghệ Xuất khẩu vải thiều tháng 6 tăng gấp 3 lần nhờ chất lượng và công nghệ |
![]() |
Hội nghị giao ban Xúc tiến thương mại hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tháng 7. |
Hệ sinh thái mạnh nhưng thị trường còn hẹp
Tại Hội nghị giao ban xúc tiến thương mại với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài do Bộ Công Thương tổ chức ngày 31/7, ông Vũ Bá Phú – Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại – nhấn mạnh rằng phát triển thị trường cho sản phẩm khoa học là chìa khóa quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu đưa khoa học và công nghệ trở thành nền tảng cốt lõi cho phát triển bền vững của quốc gia. Trong bối cảnh ấy, việc mở rộng đầu ra cho sản phẩm công nghệ Việt đang trở thành yêu cầu cấp thiết.
Việt Nam hiện đang sở hữu một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đầy tiềm năng. Với hơn 4.000 startup công nghệ, gần 1,2 triệu lao động chất lượng cao, cùng khoảng 74.000 doanh nghiệp công nghệ thông tin, mạng lưới khởi nghiệp Việt đang chứng tỏ sức bật mạnh mẽ. Bên cạnh đó là hệ thống hơn 140 trường đại học, viện nghiên cứu và hàng trăm tổ chức hỗ trợ như vườn ươm, trung tâm đổi mới sáng tạo, quỹ đầu tư và cơ sở ươm tạo trải dài trên khắp cả nước.
Năm 2024 đánh dấu bước tiến vượt bậc của hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam trên bản đồ thế giới. Việt Nam tăng hai bậc, đứng thứ 56 toàn cầu về hệ sinh thái khởi nghiệp. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh lần đầu tiên góp mặt trong top 200 thành phố khởi nghiệp hàng đầu thế giới, còn Đà Nẵng cũng lọt top 1.000. Thêm vào đó, Việt Nam có 3 chỉ số đổi mới sáng tạo đứng đầu thế giới và 3 chỉ số khác thuộc nhóm 10 quốc gia dẫn đầu, phản ánh rõ sự cải thiện đáng kể về năng lực công nghệ và tốc độ đổi mới.
Tuy nhiên, nghịch lý là dù nội lực khởi nghiệp công nghệ đang lớn mạnh, nhưng khả năng tiêu thụ sản phẩm khoa học – công nghệ Việt trên thị trường quốc tế vẫn còn khá hạn chế. Hệ thống xúc tiến hiện tại vẫn chưa đủ tầm hỗ trợ sản phẩm công nghệ bứt phá ra toàn cầu. Việc tiếp cận các chương trình xúc tiến thương mại còn rời rạc, thiếu dài hạn, chưa phân biệt rõ giữa doanh nghiệp truyền thống và doanh nghiệp công nghệ. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp đổi mới sáng tạo còn gặp khó khăn trong tiếp cận nhà đầu tư và các đối tác chiến lược quốc tế.
Đặc biệt, lĩnh vực phần mềm và công nghệ thông tin – vốn là thế mạnh của Việt Nam – hiện đã hiện diện tại hơn 30 thị trường, song giá trị xuất khẩu vẫn còn thấp so với tiềm năng. Theo bà Nguyễn Thị Thu Giang, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VINASA, nguyên nhân một phần đến từ việc thiếu hệ thống xúc tiến quốc tế đủ mạnh, khiến doanh nghiệp khó tiếp cận đúng thị trường mục tiêu.
Tình trạng tương tự cũng xảy ra với ngành công nghiệp hỗ trợ. Dù sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, song vẫn khó đưa ra thị trường vì vướng các rào cản về chứng nhận tiêu chuẩn, thiếu thông tin thị trường và kênh quảng bá quốc tế. Bà Trương Thị Chí Bình – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam – nhận định: đây là những điểm nghẽn mà các cơ quan xúc tiến cần sớm tháo gỡ.
Cần hệ xúc tiến công nghệ tầm quốc gia
![]() |
Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam có năng lực sản xuất tốt, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. |
Trong bối cảnh đổi mới sáng tạo đang trở thành chiến lược phát triển trọng tâm của nhiều quốc gia, việc định hình một hệ thống xúc tiến thương mại dành riêng cho sản phẩm công nghệ không còn là lựa chọn, mà là điều tất yếu. Theo ông Đỗ Tiến Thịnh – Phó Giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC), điều cốt lõi hiện nay là phải xây dựng được một hệ sinh thái sáng tạo gắn với thị trường, trong đó “cầu nối” ra quốc tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng – Tham tán Thương mại Việt Nam tại Đức – chia sẻ rằng doanh nghiệp Đức rất quan tâm đến các lĩnh vực công nghệ như tiết kiệm năng lượng, xử lý rác thải và nông nghiệp thông minh. Đây đều là thế mạnh của Việt Nam. Vấn đề chỉ là sản phẩm Việt chưa đạt chuẩn quốc tế, hoặc chưa tiếp cận đúng kênh xúc tiến. Vì vậy, hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần được xem là “cầu nối chiến lược”, không chỉ xúc tiến hàng hóa truyền thống, mà phải chuyển mình để hỗ trợ xúc tiến sản phẩm công nghệ – lĩnh vực có giá trị gia tăng cao hơn nhiều.
Theo ông Trần Minh – Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi xanh (Bộ Công Thương), xúc tiến sản phẩm khoa học – công nghệ đòi hỏi quy trình khác biệt so với nông sản hay hàng tiêu dùng. Việc tham gia các sự kiện công nghệ đẳng cấp thế giới như CES (Mỹ), Hannover Messe (Đức), Slush (Phần Lan) hay TechCrunch (Mỹ) không thể phụ thuộc vào nỗ lực đơn lẻ của doanh nghiệp. Cần một chiến lược xúc tiến cấp quốc gia, bài bản và liên kết.
Hiện tại, Việt Nam vẫn thiếu các trung tâm xúc tiến chuyên biệt cho sản phẩm công nghệ, thiếu cơ sở dữ liệu toàn diện về các công trình nghiên cứu có khả năng thương mại hóa. Hệ thống hội chợ, triển lãm vẫn ưu tiên sản phẩm công nghiệp truyền thống, trong khi các công nghệ mới chưa có không gian riêng để tiếp cận khách hàng tiềm năng quốc tế. Việc thiếu các trung gian công nghệ (technology broker) và nền tảng xúc tiến số quốc gia khiến kết nối cung – cầu công nghệ trở nên manh mún, kém hiệu quả.
Để tháo gỡ các điểm nghẽn này, các chuyên gia khuyến nghị cần phát triển mô hình liên kết “3 nhà” – Nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp – nhằm kiến tạo hệ sinh thái sáng tạo gắn với thị trường. Trọng tâm là hình thành nền tảng xúc tiến thương mại số quốc gia cho sản phẩm khoa học – công nghệ. Nền tảng này sẽ số hóa dữ liệu sản phẩm, chứng nhận, đánh giá và kết nối trực tiếp với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Qua đó, sản phẩm công nghệ Việt sẽ có thêm cơ hội hiện diện toàn cầu một cách chuyên nghiệp, hiệu quả và bền vững.