Thủ tướng dự Hội nghị WEF 16 Thiên Tân: Cơ hội thúc đẩy hợp tác chiến lược Việt - Trung |
![]() |
Thủ tướng kêu gọi cộng đồng doanh nghiệp hai nước tiếp tục phát huy vai trò là cầu nối, là trụ cột quan trọng kết nối hai nền kinh tế, hai đất nước, góp phần vì lợi ích chung, kiến tạo phát triển, đôi bên cùng có lợi - Ảnh: VGP |
Từ hợp tác công nghệ đến làm chủ giá trị: Hạt nhân mới cho “Make in Vietnam”
Diễn đàn Kết nối doanh nghiệp Việt Nam – Trung Quốc diễn ra ngày 24/6 tại Thiên Tân đã ghi dấu mốc quan trọng trong dòng chảy hợp tác kinh tế giữa hai nước. Điểm sáng tại diễn đàn chính là sự tham gia của các tập đoàn công nghệ lớn hai bên như Huawei, TCL, Tập đoàn Đường sắt Trung Quốc, EVN, Viettel, VNPT… với nhiều đề xuất mang tính chiến lược dài hạn, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ số, sản xuất thông minh, năng lượng xanh, cơ sở hạ tầng hiện đại.
Một trong những nội dung đáng chú ý là việc VNPT giới thiệu chiến lược “Hybrid AI” – một mô hình phát triển trí tuệ nhân tạo kết hợp linh hoạt giữa Cloud AI, Edge AI và AI on Devices. Chiến lược này không chỉ cho thấy sự bắt nhịp công nghệ toàn cầu của doanh nghiệp Việt mà còn khẳng định năng lực sáng tạo trong “nội địa hóa” công nghệ theo hướng phù hợp với bối cảnh và năng lực trong nước.
![]() |
Ông Jonathan Choi cho rằng, Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất khu vực Đông Nam Á và thế giới - Ảnh: VGP |
Việc các tập đoàn công nghệ Trung Quốc bày tỏ thiện chí hợp tác sâu với doanh nghiệp Việt ở những tầng cao nhất của công nghệ số cũng phản ánh một xu hướng tất yếu: Việt Nam đang không còn chỉ là điểm đến sản xuất chi phí thấp, mà dần trở thành đối tác trong đổi mới công nghệ. Đây là nền tảng để “Make in Vietnam” không dừng lại ở khẩu hiệu, mà từng bước chuyển thành năng lực công nghệ thực sự.
Trong chuỗi giá trị toàn cầu, sở hữu công nghệ chính là điều kiện cần để làm chủ thương hiệu. Hợp tác công nghệ với Trung Quốc, nếu chỉ dừng ở mức chuyển giao hoặc gia công, sẽ khiến doanh nghiệp Việt tiếp tục phụ thuộc. Nhưng nếu Việt Nam có thể "đồng phát triển" công nghệ – như cách VNPT đang hướng tới với mô hình Hybrid AI – thì cơ hội định vị thương hiệu quốc gia sẽ hiện hữu rõ ràng hơn bao giờ hết.
Chiến lược phát triển AI của VNPT đến năm 2027, trong đó có mục tiêu cung cấp AI như một dịch vụ (AIaaS) và xây dựng hệ sinh thái AI “Make in Vietnam”, là minh chứng rõ nét cho cách tiếp cận này. Thương hiệu quốc gia không chỉ nằm ở việc sản xuất, mà là ở năng lực sáng tạo và làm chủ công nghệ, từ đó tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mang bản sắc và giá trị riêng của Việt Nam.
Khi một sản phẩm công nghệ “Made in Vietnam” vận hành bằng thuật toán AI do chính các kỹ sư Việt xây dựng, tối ưu trên hạ tầng đám mây trong nước, bảo mật theo tiêu chuẩn quốc gia và được doanh nghiệp nội địa phân phối – lúc đó, thương hiệu Việt không chỉ được ghi nhận, mà còn có thể cạnh tranh ngang hàng với sản phẩm toàn cầu.
Chiến lược làm thương hiệu trong chuỗi giá trị toàn cầu: Không phụ thuộc, không sao chép
Để tận dụng làn sóng đầu tư công nghệ từ Trung Quốc và hiện thực hóa chiến lược “Make in Vietnam”, một yếu tố không thể thiếu là thể chế kiến tạo, đồng hành với doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Diễn đàn đã nhấn mạnh tinh thần “ba đột phá chiến lược” về thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực; cùng với “bộ tứ trụ cột” trong chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tư nhân. Đây chính là khung chính sách nền tảng để doanh nghiệp công nghệ – đặc biệt là các doanh nghiệp có định hướng “Make in Vietnam” – phát triển thương hiệu quốc gia một cách bài bản và bền vững.
Bên cạnh đó, cần có các cơ chế hỗ trợ sở hữu trí tuệ, bảo hộ thương hiệu, ưu đãi tài chính cho nghiên cứu và phát triển (R&D), cũng như chính sách ưu tiên trong đấu thầu công nghệ cho doanh nghiệp nội địa. Khi doanh nghiệp Việt được bảo vệ và tiếp sức trong môi trường cạnh tranh toàn cầu, thương hiệu Việt mới có thể vươn xa mà không bị “đè bẹp” bởi các tập đoàn ngoại.
Không thể phủ nhận Trung Quốc đang dẫn đầu nhiều lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là trong AI, hạ tầng viễn thông, giao thông điện và năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra “vị trí riêng” trong hợp tác song phương bằng cách lựa chọn mô hình cộng sinh giá trị: nơi doanh nghiệp Việt không chỉ tiếp nhận mà còn cùng phát triển sản phẩm, đồng thời giữ được bản sắc công nghệ và thương hiệu riêng.
Ở mô hình này, sự “song trụ” giữa hợp tác và nội lực trở thành điều kiện để phát triển thương hiệu quốc gia bền vững. Doanh nghiệp Việt cần tận dụng công nghệ của Trung Quốc để rút ngắn thời gian phát triển, nhưng phải luôn đặt mục tiêu làm chủ – không sao chép, không phụ thuộc.
![]() |
Chủ tịch Hội đồng thành viên VNPT đã trình bày về chiến lược "Hybrid AI" - Ảnh: VGP |
Câu chuyện VNPT triển khai Hybrid AI – trong đó phân chia xử lý giữa đám mây, biên mạng và thiết bị người dùng – không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà là cách xây dựng chủ quyền công nghệ trong môi trường hợp tác đa phương. Đây là tiền đề để phát triển một hệ sinh thái sản phẩm mang đậm dấu ấn “Make in Vietnam”, đồng thời phù hợp với chuẩn quốc tế.
Tăng tốc thương hiệu quốc gia bằng nội lực và niềm tin chiến lược
![]() |
Thủ tướng và các đại biểu đã chứng kiến lễ trao 9 biên bản ghi nhớ hợp tác giữa các doanh nghiệp hai nước - Ảnh: VGP |
Diễn đàn tại Thiên Tân vừa qua là lời nhắc mạnh mẽ rằng, trong bối cảnh hợp tác kinh tế Việt – Trung ngày càng sâu rộng, cơ hội cho doanh nghiệp Việt không còn nằm ở gia công giá rẻ, mà ở khả năng tạo giá trị thực – từ công nghệ, sản phẩm đến thương hiệu.
“Make in Vietnam” chỉ có ý nghĩa nếu đi cùng với chiến lược làm chủ công nghệ, làm chủ thị trường, và quan trọng hơn hết là làm chủ tư duy phát triển thương hiệu quốc gia. Trong kỷ nguyên kinh tế số và kinh tế xanh, thương hiệu quốc gia không còn chỉ nằm ở gạo, cà phê, hải sản… mà phải là những sản phẩm công nghệ thông minh, có bản sắc Việt và có chỗ đứng toàn cầu.
Việt Nam đang có cơ hội rất lớn, và điều còn lại là: chúng ta có đủ nhanh, đủ tỉnh táo và đủ tự tin để biến cơ hội ấy thành giá trị quốc gia hay không.
![]() |