| Xuất khẩu nông sản Việt Nam 2025: Thành tựu nổi bật và triển vọng lạc quan Mỹ miễn thuế đối ứng: Nông sản Việt Nam hưởng lợi thế ra sao? Nông sản Việt vươn mình: Cơ hội vàng tại thị trường Mỹ |
![]() |
| Vườn chanh không hạt 1,3 ha của gia đình ông Lâm Văn Quốc tại ấp Sóc, xã Tân An (Vĩnh Long). Ảnh: Thanh Hòa |
Chuỗi giá trị chanh Việt thách thức bài toán đầu ra
Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam chuyển mình từ sản xuất thuần túy sang kinh tế nông nghiệp, các mô hình liên kết hợp tác ngày càng chứng minh vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và ổn định chuỗi giá trị. Tại Đồng Tháp, HTX Dịch vụ Nông nghiệp Mỹ Long đã trải qua một hành trình đầy thách thức khi phải giải quyết bài toán đầu ra cho trái chanh không hạt. Ông Lê Văn Nam, lãnh đạo HTX Dịch vụ Nông nghiệp Mỹ Long chia sẻ: “Thời gian bảo quản ngắn, tính linh hoạt sử dụng còn hạn chế, khiến việc bán chanh tươi đôi khi gặp khó khăn, đặc biệt là khi sản lượng quá lớn hoặc thị trường biến động.”
Tình trạng này càng trở nên rõ rệt hơn trong giai đoạn COVID-19, khi hàng tấn chanh ùn ứ tại vườn, khiến nông dân phải đối mặt với nguy cơ “được mùa, mất giá”. Trước thực tế đó, HTX nhận thấy việc chỉ xuất khẩu chanh tươi không đủ để đảm bảo lợi nhuận ổn định. Nhờ chiến lược dài hạn, HTX đã quyết định tìm kiếm giải pháp chế biến sâu nhằm kéo dài thời gian bảo quản, nâng cao giá trị sản phẩm và tạo nguồn thu ổn định cho thành viên.
Song song đó, tại Vĩnh Long, HTX trồng chanh không hạt Thành Chí cũng đối mặt với bài toán duy trì năng suất, giá bán ổn định và tối ưu lợi nhuận cho nông dân. Ông Phan Đức Tài, Giám đốc Hợp tác xã Thành Chí cho biết: “Mô hình liên kết đã được duy trì nhiều năm, đảm bảo nông dân có đầu ra ổn định, giảm thiểu rủi ro do biến động giá cả thị trường.” Mô hình này không chỉ giúp nông dân ổn định thu nhập mà còn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và khuyến khích mở rộng diện tích trồng chanh đạt chuẩn xuất khẩu.
Mô hình sản xuất nhỏ lẻ, manh mún ở cả hai địa phương khiến việc tổ chức sản xuất theo hướng tập trung, ứng dụng công nghệ và liên kết với doanh nghiệp trở thành bài toán sống còn. Tại xã Tân An (Vĩnh Long), ông Trần Văn Thức, Trưởng Phòng Kinh tế UBND xã, nhấn mạnh: “Việc chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang chanh không hạt giúp thích ứng biến đổi khí hậu, mang lại lợi nhuận cao cho nông dân.”
Chi phí đầu tư và vốn sản xuất cũng là yếu tố then chốt. Mỗi ha chanh tại HTX Thành Chí có chi phí từ 100–130 triệu đồng; nếu đầu tư hệ thống tưới phun tự động khoảng 170 triệu đồng/ha. Sau 18 tháng, cây chanh bắt đầu cho thu hoạch; từ năm thứ 3, năng suất ổn định 50–70 tấn/ha/năm, cho phép thu hồi vốn nhanh chóng và tạo lợi nhuận cao. Gia đình ông Lâm Văn Quốc, với diện tích 1,3 ha và chi phí đầu tư trên 200 triệu đồng, nhờ áp dụng hệ thống tưới tự động, đã thu hồi vốn ngay trong năm đầu và từ năm 2026 đạt lợi nhuận trên 600 triệu đồng/ha/năm, cao hơn nhiều so với trồng lúa truyền thống.
Cả ở Đồng Tháp và Vĩnh Long, bài toán bảo quản, tiêu thụ và duy trì lợi nhuận ổn định là thách thức lớn, đòi hỏi đổi mới công nghệ, liên kết chuỗi giá trị và quản trị sản xuất. Đồng thời, nó đặt ra nhu cầu ứng dụng khoa học – công nghệ và liên kết doanh nghiệp – HTX – nông dân để tối ưu hóa toàn bộ chuỗi giá trị, từ đất trồng đến bàn ăn người tiêu dùng, tạo cơ hội cho nông sản Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế.
Chế biến sâu liên kết khoa học công nghệ
![]() |
| Ông Phan Đức Tài, Giám đốc Hợp tác xã Thành Chí, xã Tân An, tỉnh Vĩnh Long, phân loại chanh không hạt. Ảnh: Thanh Hòa |
Để vượt qua những thách thức về bảo quản và đầu ra, HTX Mỹ Long đã thực hiện bước đột phá chiến lược: liên kết với Trường Đại học Bách khoa TP HCM. PGS.TS Huỳnh Kỳ Phương Hạ, Phó Hiệu trưởng nhà trường, chia sẻ: “Nhà trường chủ động liên kết với doanh nghiệp để kết quả nghiên cứu nhanh chóng đi vào thực tiễn. HTX Mỹ Long đã đưa ra bài toán cụ thể, thúc đẩy chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo bền vững.”
Các chuyên gia từ Khoa Công nghệ Chế biến Thực phẩm đã tối ưu hóa công thức và quy trình chế biến nước cốt chanh mật ong, kết hợp với mật ong rừng Tràm Gáo Giồng, đồng thời chuyển giao công nghệ cô đặc và bảo quản nhiệt. Kết quả là sản phẩm giữ được vitamin C và các hoạt chất sinh học, kéo dài thời gian bảo quản mà không cần chất bảo quản độc hại. HTX áp dụng hệ thống quản lý chất lượng HACCP, ISO 22000:2018 và đạt chứng nhận OCOP 4 sao. Ông Lê Văn Nam khẳng định: “Mong mỏi của chúng tôi là làm ra nhiều sản phẩm từ trái chanh, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu ra thị trường thế giới.”
Tại Vĩnh Long, HTX Thành Chí liên kết với Công ty TNHH Một thành viên The Fruit Republic Cần Thơ xuất khẩu sang Hà Lan, đồng thời bao tiêu sản lượng với giá cao hơn thị trường. Ông Phan Đức Tài cho biết: “Mô hình liên kết giúp nông dân tiếp cận vốn vay ưu đãi, cây giống, kỹ thuật chuẩn xuất khẩu, đảm bảo đầu ra ổn định.” Cùng với đó, ông Thái Phước Lộc, Chủ tịch Liên minh HTX Vĩnh Long, nhấn mạnh: “Thông qua hợp tác xã, nông dân được tập huấn, chuyển giao kỹ thuật mới, tiếp cận vật tư chất lượng, tham gia hội chợ, hội nghị để quảng bá sản phẩm; không còn phải ‘tự bơi’ trong thị trường đầy rủi ro.”
Sự liên kết này cũng giúp tận dụng tối đa nguyên liệu: 100% trái chanh được sử dụng, loại 1 xuất khẩu tươi, loại 2 và 3 chế biến sâu. Từ đó tạo ra giá trị gia tăng trên từng ha đất, ổn định thu nhập cho nông dân, thúc đẩy kinh tế nông thôn. Gia đình ông Lâm Văn Quốc là minh chứng điển hình: nhờ mô hình liên kết và công nghệ, ông vừa thu hồi vốn nhanh, vừa đảm bảo thu nhập ổn định lâu dài.
Câu chuyện từ Đồng Tháp đến Vĩnh Long cho thấy rằng liên kết khoa học công nghệ – doanh nghiệp – HTX là chìa khóa nâng tầm giá trị nông sản Việt, tạo hệ sinh thái sản xuất hiện đại, bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu. Việc chế biến sâu, áp dụng tiêu chuẩn quốc tế cùng sự hỗ trợ về kỹ thuật, vốn và xúc tiến thương mại đã giúp chanh không hạt Việt Nam từ vườn nhà trở thành sản phẩm triệu đô trên thị trường quốc tế, mở ra hướng đi mới cho nông sản thiên nhiên Việt Nam.












