Măng cụt Lái Thiêu và loạt đặc sản Bình Dương ngon quên lối về 2 loại quả lạ ở Cao Bằng, xưa ít người ăn nay thành đặc sản được săn lùng Đặc sản Gia Lai vừa bịt mũi vừa ăn nhưng lại dễ "gây nghiện" |
“Kà tum” theo tiếng Khmer có nghĩa là trái lựu. Bánh có kích thước nhỏ, thân vuông tròn và thắt hoa trên đỉnh đầu.
Ở xã Ô Lâm (huyện Tri Tôn) hiện nay, bà Neáng Phương là một trong số ít nghệ nhân còn giữ được nghề làm bánh kà tum. Ngoài tự tay gói, bà Neáng Phương còn truyền nghề cho 5 phụ nữ trong xã, cung ứng số lượng hàng trăm cái/ngày cho các điểm tham quan trong huyện.
"Lúc tôi dạy nghề, có người "học lóm" cách gói rồi đem bán, nhưng chất lượng không bằng. Để không ảnh hưởng đến uy tín, hàng ngày tôi đến chỗ các thợ khác để kiểm tra, bánh phải đạt chất lượng mới giao cho các mối nhận hàng. Lượng bánh tiêu thụ nhiều nhất hiện nay bán tại khu vực hồ Ô Thum. Ngoài ra, các dịp lễ đặc biệt, tôi gói từ 500 - 1.000 cái mỗi ngày theo yêu cầu đều tiêu thụ hết” - bà Neáng Phương chia sẻ.
Sở dĩ không thể tùy tiện học qua loa là vì làm bánh kà tum đòi hỏi sự tỉ mỉ, cầu kỳ từ cách gói đến tay nghề đo đếm nguyên liệu.
Vỏ bánh được sử dụng lá thốt nốt non để gói, phải thuê người hái hàng ngày mới đảm bảo tươi, có độ mềm, dễ đan hình. Từng lá thốt nốt chia nhỏ thắt thành khung bánh hoàn toàn thủ công, chỉ chừa một lổ nhỏ để cho nguyên liệu vào. Thành phẩm gói xong được cắt tỉa gọn, nối một sợi dây dài từ đỉnh hoa, trông như chiếc đèn lồng nhỏ xinh.
Thời gian đan một chiếc vỏ bánh mất khoảng 15 – 30 phút. Vỏ bánh phải được đan đều tay, chắc chắn, tỉ mỉ. Đây chính là công đoạn yêu cầu nhiều thời gian nhất khi làm bánh kà tum.
Trái với công đoạn làm vỏ gói bánh, nguyên liệu làm bánh lại đơn giản hơn. Các nguyên liệu làm bánh kà tum bao gồm nếp trắng, đậu trắng, dừa, muối và đường cát. Loại nếp làm bánh kà tum An Giang truyền thống là loại nếp Chon Hô của người Khmer. Loại nếp này được trồng trong 6 tháng nên có độ dẻo thơm rất đặc biệt. Tuy nhiên, ngày nay loại nếp này rất khó kiếm nên nguyển liệu đã dần được thay thế bằng nếp trắng thông thường.
Nếp làm bánh được vo kĩ, ngâm qua đêm, và để ráo. Sau đó trộn đều nếp với đậu trắng, cốt dừa, dừa, chút muối và đường, để ngấm gia vị. Tất cả hỗn hợp này được cho qua một lỗ nhỏ trên vỏ bánh hình trái lựu, và thắt lại. Bánh gói xong sẽ được nấu trong nồi nước sôi như bánh tét, khoảng 45 – 60 phút. Vì thời gian làm vỏ và cho nhân khá lâu nên trung bình người thợ lành nghề như bà Phương làm được khoảng 100 cái bánh một ngày.
Bánh thành phẩm sẽ có màu vàng trong, óng lên rất đẹp. Mỗi một chùm gồm 10 chiếc bánh kà tum. Nhân bên trong mềm, trắng, dẻo vị nếp, bùi vị đậu trắng và ngọt ngậy vị dừa, cộng thêm mùi thơm đặc trưng tự nhiên của lá thốt nốt.
Số lượng bánh làm để giao bán hàng ngày được tính theo chục (10 cái). Mỗi cái bánh Kà tum có giá bán lẻ 5.000 đồng. Những ai lần đầu cầm chiếc bánh nhỏ xíu trong lòng bàn tay thì chê mắc. Nhưng chứng kiến cách gói và biết về công lao của người thợ… họ lại khẳng định giá trên vẫn còn rẻ.
Cách ăn bánh kà tum nhanh nhất là dùng kéo cắt bỏ lớp vỏ ngoài. Nhưng như thế sẽ mất đi phần thú vị. Chỉ cần nhẹ nhàng tháo từng đầu mối, nhân bánh trắng mềm bên trong sẽ lộ hình nguyên vẹn, khô ráo, không dính vỏ. Độ dẻo của nếp, bùi của đậu, quyện với vị ngọt ngậy từng sợi dừa… cảm nhận thơm ngon lôi cuốn.
Bánh kà tum thường được làm trong các ngày lễ như Tết dân tộc, Bonh Đôl-ta, Chôl Chnăm Thmay, Bonh Oc-om-bok... Nhờ du lịch thúc đẩy, những chiếc bánh nhỏ xinh trở nên hút khách và được làm bán quanh năm. Nét văn hóa trong ẩm thực của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer theo đó được gìn giữ và phổ biến rộng rãi.
Khánh Hòa có đặc sản gì ngon ngoài nem nướng, yến sào? |
5 món ngon từ bông điên điển dễ làm, chuẩn vị miền Tây |
Quả dại xưa không ai ngó, nay thành đặc sản được ưa chuộng, cực tốt cho quý ông |