Ngành sữa đối mặt với sức ép từ giá nguyên liệu |
![]() |
Sản phẩm sữa hữu cơ, truy xuất nguồn gốc rõ ràng đang ngày càng chiếm ưu thế – hướng đi tất yếu để ngành sữa phát triển bền vững theo chuỗi giá trị hiện đại. |
Thách thức về tiêu chuẩn, nguyên liệu và thị trường tiêu thụ
Tại hội thảo “Phát triển ngành sữa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” – sự kiện nằm trong khuôn khổ “Tuần lễ Sữa tươi Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương tổ chức ngày 5/8 – các chuyên gia đã chỉ rõ nhiều điểm nghẽn đang cản trở ngành sữa trong nước phát triển bền vững. Dù được xác định là ngành hàng chiến lược phục vụ nâng cao thể trạng người Việt, nhưng sữa nội vẫn chưa chiếm lĩnh được thị trường trong nước.
Mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại Việt Nam hiện chỉ đạt khoảng 27 lít/năm – thấp hơn nhiều so với Thái Lan (35 lít), Singapore (45 lít) và châu Âu (80–100 lít). Trong khi đó, nhu cầu tiêu dùng vẫn gia tăng 7–8% mỗi năm. Tuy nhiên, sản lượng sữa tươi trong nước mới chỉ đáp ứng khoảng 38% nhu cầu chế biến. Phần lớn nguồn nguyên liệu còn lại vẫn phải dựa vào sữa bột hoàn nguyên nhập khẩu – vốn kém hơn sữa tươi về giá trị dinh dưỡng.
Một trong những rào cản lớn hiện nay là hệ thống quy chuẩn kỹ thuật chưa phân biệt rõ giữa sữa tươi và sữa hoàn nguyên, khiến cả hai cùng được dán nhãn là “sữa tiệt trùng”. Theo PGS.TS. Vũ Nguyên Thành, Viện trưởng Viện Công nghiệp Thực phẩm, cách ghi nhãn này gây hiểu nhầm cho người tiêu dùng, ảnh hưởng đến quyền lựa chọn và làm méo mó thị trường.
Ngoài ra, các chỉ tiêu dinh dưỡng quan trọng như protein, chất béo, vitamin D và canxi cũng chưa được quy định cụ thể về hàm lượng tối thiểu, dẫn đến chênh lệch chất lượng giữa các sản phẩm trên thị trường. GS.TS.BS. Lê Thị Hợp, Chủ tịch Hội Nữ trí thức Việt Nam, cảnh báo điều này ảnh hưởng trực tiếp tới các chương trình trọng điểm như Sữa học đường – nơi cần ưu tiên sử dụng sữa tươi nguyên chất để đảm bảo hiệu quả dinh dưỡng cho trẻ em.
Sự cạnh tranh từ các thương hiệu ngoại với sản phẩm hữu cơ, sạch và có truy xuất nguồn gốc cũng đặt ra sức ép lớn cho ngành sữa nội. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với nhiều FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, ngành buộc phải tái cấu trúc chuỗi giá trị toàn diện từ con giống, chăn nuôi đến chế biến và phân phối.
Công nghệ cao, liên kết nông dân là đáp án cho phát triển bền vững
![]() |
Người tiêu dùng trẻ lựa chọn sản phẩm sữa tại siêu thị – thực tế thị trường đòi hỏi minh bạch thông tin và tiêu chuẩn rõ ràng giữa sữa tươi và sữa hoàn nguyên. |
Trước những thách thức đó, định hướng phát triển chuỗi giá trị bền vững với công nghệ cao và minh bạch thông tin là lựa chọn không thể trì hoãn. Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài, Chiến lược phát triển ngành sữa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu tăng trưởng trung bình 8–9%/năm, nâng tỷ lệ nguyên liệu sữa tươi nội địa lên 53–56% vào năm 2030 và 62–65% vào năm 2045.
TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương cho rằng Việt Nam có lợi thế tự nhiên để phát triển bò sữa với mô hình “song song hai tầng”: (1) Chăn nuôi công nghệ cao quy mô lớn do doanh nghiệp đầu tư; (2) Hộ chăn nuôi chuyên nghiệp quy mô 30–50 con gắn với doanh nghiệp. TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, nhận định mô hình này sẽ tạo vùng nguyên liệu ổn định, lan tỏa lợi ích đến cộng đồng và nâng cao thu nhập nông hộ nếu được hỗ trợ đúng hướng.
Tập đoàn TH là ví dụ điển hình về mô hình liên kết sản xuất – chế biến – tiêu dùng hiện đại. Với đàn bò gần 70.000 con, năng suất 35 lít/con/ngày, TH đã phát triển vùng nguyên liệu lớn tại Nghệ An, áp dụng công nghệ cao trong chuỗi khép kín. Doanh nghiệp này cũng là đơn vị tiên phong trong Chương trình Sữa học đường, với sản phẩm được Bộ Y tế xác nhận hiệu quả dinh dưỡng từ năm 2013.
Tuy nhiên, để các mô hình này lan tỏa, cần các chính sách hỗ trợ đồng bộ, gồm: Áp dụng thuế VAT 0% cho sữa tươi nguyên liệu sản xuất trong nước; Trợ giá chăn nuôi công nghệ cao, hỗ trợ tích tụ ruộng đất để phát triển vùng nguyên liệu tập trung; Rà soát, hoàn thiện quy chuẩn kỹ thuật – đặc biệt cần phân biệt rõ ràng giữa sữa tươi và sữa hoàn nguyên; Tổ chức chiến dịch truyền thông sâu rộng nhằm giúp người tiêu dùng hiểu đúng – chọn đúng – tiêu dùng đúng.
GS.TS.BS. Lê Thị Hợp nhấn mạnh, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm từ Trung Quốc – nơi quy định rõ chương trình Sữa học đường chỉ sử dụng 100% sữa tươi nguyên chất. Đây là hướng đi chiến lược giúp xây dựng thói quen tiêu dùng sữa chất lượng cao cho thế hệ tương lai.
Ngành sữa Việt Nam không thiếu tiềm năng, nhưng muốn bứt phá cần cải tổ sâu chuỗi giá trị – từ kỹ thuật, tiêu chuẩn đến truyền thông thị trường. Chỉ khi có sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nông dân, ngành sữa mới có thể phát triển bền vững, đóng góp vào mục tiêu nâng cao thể trạng người Việt và xây dựng thương hiệu quốc gia vững mạnh trên bản đồ sữa thế giới.