![]() |
Rau VietGAP, sản phẩm của HTX Tuấn Ngọc (TP HCM). |
Diện tích rau VietGAP thấp, nông dân ngại tham gia
Theo số liệu công bố năm 2024 từ kết quả điều tra 5 năm một lần, tổng diện tích rau đạt chứng nhận VietGAP chỉ hơn 8.000 ha trên tổng số 1,15 triệu ha, tức khoảng 0,5% – 0,6%. Ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật - Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) nhấn mạnh, đây là con số quá khiêm tốn so với quy mô sản xuất và nhu cầu tiêu thụ hiện nay.
Từ năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ NN&MT) đã ban hành các quy định khuyến khích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, kèm theo các chính sách hỗ trợ của Chính phủ. Tuy nhiên, diện tích sản xuất đạt chuẩn trong thời gian dài vẫn hạn chế. Tổng diện tích được chứng nhận VietGAP cho 6 nhóm cây trồng mới đạt khoảng 150.000 ha, trong đó rau chỉ chiếm hơn 8.000 ha, cây ăn quả đạt khoảng 76.000 ha, chè khoảng 5.200 ha. Nếu tính cả các chứng nhận khác như GlobalGAP, tổng diện tích đạt khoảng 440.000 ha, nhưng rau cũng chỉ chiếm hơn 8.400 ha.
Nguyên nhân chính là chi phí sản xuất cao, khiến nhiều nông dân ngần ngại tham gia. Đại diện HTX Sản xuất và Tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng cho biết, HTX chỉ có 5 ha rau VietGAP nhưng là đất thuê, mỗi sào phải trả 1,5–2 triệu đồng/năm, lợi nhuận gần như không có. Thực tế này cho thấy, với các đơn vị sản xuất nhỏ và nguồn lực hạn chế, việc sản xuất rau sạch gắn với tiêu thụ là bài toán khó.
Theo Chủ tịch HĐTV Công ty LangBiang Farm (Lâm Đồng), các sản phẩm đạt tiêu chuẩn GlobalGAP có thể vào siêu thị và xuất khẩu sang Hàn Quốc, Đài Loan – Trung Quốc, Singapore… nhưng vấn đề thị trường nội địa vẫn là nỗi lo lớn. Sản phẩm sạch dễ bị nhập nhằng với rau kém chất lượng, gây hoang mang cho người tiêu dùng.
Tăng cường giám sát, xây dựng hệ thống minh bạch
![]() |
Việc sản xuất và tiêu thụ rau sạch tại Việt Nam đang gặp nhiều thách thức, từ chi phí cao, nông dân e ngại, thị trường nội địa nhập nhằng đến quản lý chưa đồng bộ. Ảnh: Q.D |
Để giải quyết tình trạng này, các chuyên gia cho rằng cần siết chặt quản lý từ khâu sản xuất đến lưu thông. Ông Nguyễn Văn Mười, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nhấn mạnh phải kiểm soát nghiêm hàng hóa trên thị trường, quản lý chặt chẽ các loại thuốc bảo vệ thực vật theo đơn, thời gian cách ly kéo dài từ vài tuần đến vài tháng, nhằm đảm bảo người tiêu dùng không bị ảnh hưởng.
Bên cạnh đó, bà Trần Thị Dung, Phó Chủ tịch kiêm Trưởng Ban kiểm tra – Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, cho rằng quản lý thực phẩm hiện chia làm ba đầu mối: Bộ Y tế, Bộ Công Thương và Bộ NN&MT, dẫn đến thiếu đồng bộ. Việc tập trung quản lý vào một đầu mối, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng tiêu chuẩn minh bạch là cần thiết.
Các ví dụ quốc tế cũng chứng minh hiệu quả. Ở Nhật Bản, dù sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, việc kiểm soát sản xuất an toàn thực phẩm rất nghiêm ngặt. Rau xà lách tại làng Kawakami (tỉnh Nagano) bán khắp thế giới, giúp ngôi làng trở thành một trong những làng giàu có nhất Nhật Bản. Thực tế này cho thấy, diện tích sản xuất nhỏ lẻ tại Việt Nam vẫn có thể đạt chuẩn sạch và an toàn nếu quản lý tốt. Ông Nguyễn Quý Dương nhấn mạnh, truy xuất nguồn gốc từ khâu sản xuất là mấu chốt. Nếu để tình trạng nhập nhằng tiếp tục, Việt Nam sẽ phải “sống chung” với thực phẩm không an toàn trong nhiều năm tới.
Ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước – Bộ Công Thương, bổ sung, hàng hóa ở siêu thị thường do doanh nghiệp lớn cung ứng, có giấy chứng nhận, nhưng các hộ kinh doanh nhỏ lẻ tại chợ chỉ cần cam kết với cơ quan quản lý nên công tác giám sát còn hạn chế. Bộ Công Thương đã ban hành TCVN 11858:2017 về chợ kinh doanh thực phẩm, nhưng đây chỉ là tiêu chuẩn khuyến nghị, chưa bắt buộc.
Theo ông Tuấn, để khắc phục, cần hoàn thiện pháp luật, rà soát mô hình quản lý chợ, nâng cấp cơ sở vật chất, kiểm soát nguồn hàng và tăng cường tập huấn cho hộ kinh doanh nhỏ lẻ. Ngoài ra, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa dự kiến có hiệu lực từ 1/1/2026, cùng thông tư đi kèm, sẽ áp dụng “hộ chiếu số” cho từng sản phẩm, giúp siết chặt truy xuất nguồn gốc và quản lý an toàn thực phẩm hiệu quả hơn.
Việc sản xuất và tiêu thụ rau sạch tại Việt Nam đang gặp nhiều thách thức, từ chi phí cao, nông dân e ngại, thị trường nội địa nhập nhằng đến quản lý chưa đồng bộ. Tuy nhiên, nếu tăng cường giám sát, minh bạch hóa quy trình sản xuất và áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc, cùng với nâng cao ý thức của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng, thị trường rau sạch có thể phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu an toàn thực phẩm trong nước.