![]() |
Việt Nam hiện là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới với hơn 8 triệu tấn trong năm 2024, kim ngạch gần 6 tỷ USD. |
Thách thức tạm trữ và ổn định thị trường lúa gạo
Việc Philippines tạm ngừng nhập khẩu gạo trong 60 ngày kể từ 1/9/2025 ảnh hưởng trực tiếp tới Đồng bằng sông Cửu Long – vùng sản xuất lúa chủ lực, chiếm khoảng 95% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Trước tình hình này, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với các đơn vị liên quan hướng dẫn doanh nghiệp thu mua tạm trữ lúa gạo, đồng thời tìm kiếm thị trường mới để ổn định giá và hỗ trợ nông dân.
Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam: “Trước đây, việc giao doanh nghiệp tạm trữ lúa gạo cho hiệu quả nhanh chóng, chủ động trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, năng lực tồn trữ còn thấp, phạm vi hoạt động hẹp, trung chuyển lúa khó khăn và quá trình đưa ra thị trường vẫn phát sinh vướng mắc.” Ông đề xuất: “Cần đẩy mạnh tạm trữ ngay tại vùng sản xuất, gắn với từng vụ lúa và trú trọng hơn đến lúa thau vì có thể bảo quản lâu hơn, quản lý thuận lợi hơn. Đồng thời, đa dạng hóa phương thức tạm trữ, mở rộng thêm nhiều đối tượng tham gia và nâng cao quản lý.”
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh vai trò của hợp tác xã. Tiến sĩ Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách Công và Phát triển nông thôn nhận định: “Hiện chưa nhiều hợp tác xã tham gia tạm trữ, nhưng một số mô hình đã thành công. Khi hợp tác xã liên kết theo chuỗi với doanh nghiệp, cả hai bên cùng tham gia tạm trữ hiệu quả, đặc biệt khi thị trường biến động.”
Ví dụ, Hợp tác xã Vĩnh Cường (Cà Mau), các tổ hợp tác ở Mỹ Xuyên (TP. Cần Thơ) và Hợp tác xã Vinacam (Hòn Đất, An Giang) đã phối hợp doanh nghiệp triển khai tốt công tác tạm trữ. Tại Thoại Sơn (An Giang), hợp tác xã kết hợp với Tập đoàn Tân Long và Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An để thu gom, sấy lúa hoặc đưa lúa tươi về nhà máy doanh nghiệp, giảm áp lực cho cả doanh nghiệp và thị trường.
Chuỗi ngành hàng lúa gạo gồm nhiều tác nhân: nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp vật tư đầu vào, thương lái, cơ sở xay xát – chế biến và xuất khẩu, cùng hệ thống phân phối. Hợp tác xã giữ vai trò then chốt trong việc tổ chức sản xuất tập trung, nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, đồng thời là cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp trong ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Tuy nhiên, nhiều hợp tác xã vẫn thiếu quy mô và kỹ năng quản trị, khiến liên kết với doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả tối đa.
Chiến lược liên kết nâng cao hiệu quả chuỗi lúa gạo
![]() |
Để tăng hiệu quả tạm trữ, việc phân bổ hợp tác xã tham gia trực tiếp vào từng khâu của chuỗi cũng được khuyến nghị. |
Theo Tiến sĩ Trần Minh Hải, chiến lược liên kết doanh nghiệp – hợp tác xã cần kết hợp hạ tầng, quản lý và kỹ thuật: “Hợp tác xã có thể ký hợp đồng với doanh nghiệp, điều chỉnh lịch thu hoạch, cung cấp dịch vụ cơ giới hóa, vận chuyển, sấy lúa mà không cần sở hữu trực tiếp thiết bị. Điều này giúp cân đối nguồn vốn lưu động, giảm áp lực lên doanh nghiệp và nâng cao khả năng điều phối sản lượng khi thị trường biến động.”
Chính phủ cũng đã đầu tư 37 hợp tác xã trong Dự án “Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam” (VnSAT) với kho chứa từ 2.500–4.000 m², hỗ trợ hợp tác xã tham gia tạm trữ hiệu quả. Khi kết hợp với hệ thống sấy, silo lưu trữ và thanh toán trước một phần cho nông dân, doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trước biến động thị trường, đồng thời thúc đẩy sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải, hướng tới tăng trưởng xanh.
Ngoài hạ tầng, năng lực quản lý của giám đốc hợp tác xã là yếu tố then chốt. Ông Hải nhấn mạnh: “Họ cần tư duy sản xuất – kinh doanh, điều phối giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, đảm bảo đồng bộ về giống, quy trình quản lý nước, kỹ thuật sấy và vận chuyển. Khi làm được, chi phí thiết bị giảm, lợi nhuận trực tiếp đến tay nông dân, đồng thời bảo vệ thị trường xuất khẩu khỏi biến động.”
Để tăng hiệu quả tạm trữ, việc phân bổ hợp tác xã tham gia trực tiếp vào từng khâu của chuỗi cũng được khuyến nghị. Hợp tác xã vừa thu mua lúa thau tại các hộ nông dân, vừa cung cấp dịch vụ sấy, vận chuyển, kho bãi cho doanh nghiệp. Một số mô hình cho thấy, nhờ quản lý chặt chẽ, việc dự trữ 2–3 triệu tấn lúa trong những thời điểm hợp lý có thể giúp ổn định thị trường nội địa và xuất khẩu, giảm rủi ro giá rớt vào mùa thu hoạch.
Với sản lượng lúa hàng năm đạt 24–25 triệu tấn, Đồng bằng sông Cửu Long là lợi thế đặc thù mà các nước trong khu vực không có. Vụ thu đông dự kiến đạt khoảng 6 triệu tấn, được coi là “đệm an toàn” cho xuất khẩu cuối năm. Liên kết doanh nghiệp – hợp tác xã, kết hợp hạ tầng, kỹ thuật và quản lý, sẽ giúp tối ưu hóa chuỗi cung ứng, bảo vệ nông dân và thúc đẩy ngành lúa gạo Việt Nam phát triển bền vững, xanh và hiệu quả.