Trái cây Việt tìm chỗ đứng bền vững toàn cầu Xây dựng biểu tượng mùa vụ cho trái cây Việt Để trái cây Việt vững vàng mùa thu hoạch |
![]() |
Sầu riêng giữ vững vị thế dẫn đầu trong nhóm trái cây xuất khẩu tỉ đô, tiếp tục bứt tốc nhờ nhu cầu tăng mạnh tại Trung Quốc. |
Sầu riêng được xem là một trường hợp ngoại lệ của ngành cây ăn trái Việt Nam khi đạt tốc độ tăng trưởng đột biến về cả kim ngạch xuất khẩu lẫn diện tích trồng. Nếu như năm 2021, khi Việt Nam chưa xuất khẩu chính ngạch sầu riêng sang Trung Quốc, giá trị xuất khẩu chỉ đạt khoảng 178 triệu USD thì đến năm 2022 – dù chỉ chính thức ký nghị định thư vào tháng 7 và lô hàng đầu tiên xuất khẩu vào tháng 9 – sầu riêng vẫn mang về 277 triệu USD, tăng 56% so với năm trước.
Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng tăng bùng nổ lên hơn 2 tỉ USD, tăng 622% so với năm 2022. Năm 2024 tiếp tục lập kỷ lục mới khi đạt 3,3 tỉ USD, tăng 65% so với năm 2023. Như vậy, chỉ trong vòng ba năm, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng đã tăng hơn 1.092%, trong đó trên 97% sản lượng được tiêu thụ tại thị trường Trung Quốc – con số chưa từng có tiền lệ trong ngành trái cây Việt Nam.
Diện tích sầu riêng cũng mở rộng mạnh, từ 32.000 ha năm 2015 lên 178.000 ha hiện nay, tức trung bình mỗi năm tăng khoảng 16.300 ha. Sản lượng tăng từ 126.000 tấn lên hơn 1,5 triệu tấn vào năm ngoái, với xu hướng tiếp tục mở rộng, đặc biệt tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long – nơi nhiều hộ dân đang chuyển đổi đất trồng lúa và các loại cây truyền thống sang trồng sầu riêng.
Từ hiệu ứng sầu riêng, ngành nông nghiệp đang đặt kỳ vọng vào dừa, chuối, chanh dây và khóm như những sản phẩm có tiềm năng gia nhập “câu lạc bộ tỉ đô”. Trong đó, dừa là mặt hàng đáng chú ý khi Việt Nam hiện đứng thứ 5 thế giới về diện tích trồng, với khoảng 196.200 ha, chủ yếu tập trung tại Đồng bằng sông Cửu Long. Riêng tỉnh Vĩnh Long mới (được sáp nhập bởi Bến Tre, Trà Vinh và Vĩnh Long) hiện chiếm đến 70% diện tích dừa toàn vùng. Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu dừa đạt khoảng 1,1 tỉ USD, với dự báo có thể vượt 1,2 tỉ USD trong năm nay và tiến tới mốc 2 tỉ USD trong tương lai gần.
Tuy nhiên, nhu cầu tăng nhanh khiến doanh nghiệp trong nước phải chi hơn 7,2 triệu USD để nhập khẩu dừa nguyên liệu trong 4 tháng đầu năm 2025 – tăng hơn 1.000% so với cùng kỳ. Ngành nông nghiệp đã đặt mục tiêu nâng diện tích dừa lên 210.000 ha vào năm 2030 nhằm đáp ứng nhu cầu chế biến và xuất khẩu.
Chuối cũng đang là một ứng viên sáng giá. Việt Nam hiện có khoảng 161.000 ha chuối và đã lọt vào top 10 quốc gia xuất khẩu chuối lớn nhất thế giới vào năm 2024, với kim ngạch đạt 378 triệu USD. Thành công này nhờ vào những mô hình sản xuất quy mô lớn, tiêu chuẩn cao, tiêu biểu như trang trại của Unifarm – đơn vị đã xuất khẩu chuối sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore với mức giá lên tới 20.000 USD/ha. Nhờ sở hữu giống chuối Uni 126 có khả năng kháng bệnh Panama với tỉ lệ 95–98%, doanh nghiệp này cho biết nếu phát huy hết năng lực vùng trồng, chuối hoàn toàn có thể đạt mốc 1 tỉ USD trong tương lai gần.
Trong khi đó, khóm (dứa) cũng được đánh giá có tiềm năng cao khi hiện có khoảng 50 quốc gia và vùng lãnh thổ nhập khẩu loại trái cây này từ Việt Nam. Đặc biệt, thị trường Nhật Bản sẵn sàng mua khóm cô đặc của Việt Nam với giá khoảng 4.000 USD/tấn. Đây là tín hiệu tích cực cho ngành hàng có quy mô tiêu thụ toàn cầu lên tới 29 tỉ USD trong năm 2024.
Chiến lược vùng trồng và quản trị chất lượng quyết định đường dài
![]() |
Dừa Việt Nam đang nỗ lực nâng chất lượng và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế để sớm gia nhập nhóm nông sản xuất khẩu tỉ đô |
Dù nhiều loại trái cây Việt Nam đang có cơ hội gia nhập “câu lạc bộ tỉ đô”, song thực tế cho thấy, chặng đường phía trước không hề dễ dàng. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổng diện tích chuối, chanh dây và khóm hiện đạt khoảng 420.000 ha, sản lượng khoảng 6,3 triệu tấn. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu năm 2023 mới dừng ở mức 380 triệu USD với chuối và 222 triệu USD với chanh dây. Điều này cho thấy tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả.
Nguyên nhân chủ yếu nằm ở việc thiếu quy hoạch vùng trồng bài bản, chất lượng giống chưa ổn định và hệ thống thủy lợi, cơ sở hạ tầng còn hạn chế. Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), cho rằng muốn đưa khóm và các loại trái cây khác cán mốc tỉ đô, cần sớm xây dựng chiến lược phát triển vùng nguyên liệu bền vững. Gợi ý được ông đưa ra là áp dụng mô hình nông trường, cổ phần hóa hoặc đấu giá thuê đất để tạo quỹ đất ổn định, đồng thời hỗ trợ nông dân đầu tư ban đầu – vốn đang dao động ở mức 120–130 triệu đồng/ha.
Từ góc độ doanh nghiệp, đại diện Unifarm nhấn mạnh việc tập trung vào tiêu chuẩn cao nhất được thị trường chấp nhận là yếu tố giúp tạo khác biệt. Việc chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật canh tác bền vững cho hợp tác xã và nông hộ cũng là chiến lược then chốt để mở rộng diện tích đạt chuẩn xuất khẩu. Bài học từ Unifarm cho thấy việc có giống chất lượng cao và quy trình kiểm soát khép kín là yếu tố sống còn để nâng giá trị từ 2.400 USD/ha lên 6.500 USD/ha – tương đương khả năng cán mốc 1 tỉ USD nếu khai thác hiệu quả diện tích hiện có.
Tuy nhiên, để cuộc đua tỉ đô trở nên thực chất, các chuyên gia cũng cảnh báo về những rào cản kỹ thuật ngày càng siết chặt từ các thị trường nhập khẩu. Theo ông Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng giám đốc Nafoods, cần kiểm soát chặt việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, bởi nhiều hoạt chất đang bị cấm tại châu Âu, Mỹ và Nhật Bản nhưng vẫn tồn tại trong sản xuất ở Việt Nam.
Ngoài ra, hướng đi bền vững không thể chỉ phụ thuộc vào xuất khẩu tươi. Ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An, đề xuất ngành trái cây cần chuyển sang chế biến sâu và tận dụng phụ phẩm để gia tăng giá trị. Đây không chỉ là hướng đi chiến lược mà còn là điều kiện cần để tăng khả năng cạnh tranh khi thị trường toàn cầu đang ưu tiên sản phẩm có giá trị gia tăng cao và đảm bảo an toàn thực phẩm.