Ứng dụng công nghệ bức xạ trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm thiên nhiên Phát triển sản phẩm thiên nhiên: Cơ hội từ Nghị quyết 68 |
![]() |
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại phiên toàn thể UNOC 3 ngày 9/6 tại Nice (Pháp), đại diện 10 quốc gia ASEAN, chia sẻ quan điểm về bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên biển.Ảnh: VGP. |
Việt Nam: Đối tác tin cậy vì đại dương xanh
Trong khuôn khổ UNOC 3, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tham dự Diễn đàn Kinh tế và Tài chính xanh tại Công quốc Monaco. Là khách mời chính, Thủ tướng đã có bài phát biểu quan trọng, nhấn mạnh biển không chỉ là tài nguyên hay khởi nguồn sự sống, mà còn là "không gian sinh tồn kết nối con người với thiên nhiên của mọi quốc gia". Với Việt Nam, biển còn là "bản sắc văn hóa và tâm hồn của dân tộc". Phát triển kinh tế biển hiệu quả, bền vững là "yêu cầu khách quan, đòi hỏi tất yếu và lựa chọn chiến lược" để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Thủ tướng cảnh báo về nghịch lý khi "các mục tiêu bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương có mức đầu tư thấp nhất trong 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc", dù đại dương chiếm 70% bề mặt Trái Đất. Để giải quyết, Thủ tướng đề xuất cách tiếp cận "toàn dân, toàn diện, toàn cầu", với tinh thần "công bằng, bình đẳng, bao trùm và bền vững", dựa trên ba trụ cột: Một là, đầu tư cho nghiên cứu và dữ liệu biển toàn cầu; hai là, xây dựng hệ sinh thái tài chính đại dương xanh với phương châm "Nhà nước dẫn dắt – Doanh nghiệp tiên phong – Người dân đồng hành – Tổ chức quốc tế kiến tạo và hỗ trợ"; ba là, thúc đẩy hợp tác toàn cầu, lấy "Liên hợp quốc làm trung tâm – Luật pháp quốc tế làm nền tảng – Hợp tác quốc tế làm động lực dẫn dắt".
Thủ tướng khẳng định: "Việt Nam luôn là đối tác tin cậy, sẵn sàng đồng hành, là đối tác tích cực, dẫn dắt trong hợp tác về biển và là đối tác trách nhiệm trong các sáng kiến tài chính xanh công bằng và bền vững".
Giá trị kinh tế của đại dương dự báo sẽ vượt 3.000 tỷ USD vào năm 2030, nhưng ước tính cần khoảng 175 tỷ USD mỗi năm để đầu tư vào nền kinh tế biển bền vững. Tham gia Diễn đàn Kinh tế và Tài chính xanh, Việt Nam không chỉ khẳng định tầm nhìn chiến lược mà còn mở ra cơ hội hợp tác, thu hút đầu tư vào lĩnh vực đầy tiềm năng này.
Việt Nam luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tuân thủ Luật Biển Quốc tế (UNCLOS) và chủ động bảo tồn, sử dụng bền vững tài nguyên biển. Việt Nam đã có nhiều biện pháp quyết liệt thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững số 14 (SDG 14) về bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển, nổi bật là việc tăng diện tích khu bảo tồn biển. UNOC 3 là cơ hội quý báu để Việt Nam giới thiệu thành tựu, trao đổi kinh nghiệm quốc tế và tăng cường hợp tác về khoa học kỹ thuật, trang thiết bị, tài chính cho việc thực hiện SDG 14.
Cam kết này còn thể hiện rõ qua các chủ trương của Đảng và Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang tích cực triển khai chính sách tín dụng xanh, khuyến khích các tổ chức tín dụng ưu tiên nguồn vốn cho các dự án và hoạt động sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế biển. Nhiều ngân hàng thương mại lớn đã xây dựng các gói sản phẩm tín dụng xanh riêng biệt, ưu đãi lãi suất cho doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ sạch, xử lý chất thải và bảo tồn biển.
![]() |
HDBank công bố Báo cáo Phát triển bền vững 2024, nổi bật với 31.000 tỷ đồng giải ngân dự án xanh, 3.000 tỷ đồng trái phiếu xanh, huy động được 240 triệu USD tín dụng xanh. Ảnh: HDBank. |
HDBank, một trong những ngân hàng tiên phong tại Việt Nam, đã công bố Báo cáo Phát triển bền vững 2024, tuân thủ 18 tiêu chí của GRI và tham chiếu đầy đủ 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc, thể hiện cam kết mạnh mẽ về ESG. Ngân hàng đã giải ngân hơn 31.000 tỷ đồng cho các dự án xanh và phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu xanh, đồng thời huy động 240 triệu USD tín dụng xanh từ IFC, ADB và Propaco.
Cùng với sự định hướng của Chính phủ, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động thực hành ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) như một chiến lược phát triển cốt lõi. Từ tập đoàn lớn đến doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngày càng có nhiều đơn vị chú trọng giảm thiểu tác động môi trường, tối ưu hóa quy trình sản xuất, quản lý chất thải bền vững, đồng thời quan tâm đến trách nhiệm xã hội và quản trị minh bạch. Đây không chỉ là xu hướng toàn cầu mà còn là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín, thu hút đầu tư và mở rộng thị trường quốc tế.
Đại diện ASEAN phát biểu tại UNOC 3, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh sáu định hướng chiến lược cụ thể để phát triển kinh tế biển bền vững, gồm: gắn kết tri thức khoa học và kinh nghiệm dân gian; thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; huy động tài chính xanh; quản trị biển theo phương pháp đa ngành; tăng cường kết nối liên vùng, liên quốc gia; và hợp tác quốc tế thực chất. Việt Nam cam kết “ba chủ động”: triển khai chính sách cụ thể, hợp tác công nghệ, và đề xuất sáng kiến toàn cầu – khẳng định quyết tâm hành động, không chỉ dừng ở tuyên bố.
Định vị thương hiệu toàn cầu từ sản phẩm thiên nhiên biển
Biển Việt Nam với đường bờ biển dài hơn 3.260 km, hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ và vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km², cùng hệ sinh thái đa dạng, là kho tàng tài nguyên thiên nhiên vô giá. Đây là cơ hội lớn để phát triển các sản phẩm "Made in Vietnam" từ biển, tạo dựng thương hiệu quốc gia. Khai thác bền vững các nguồn lợi này không chỉ góp phần tăng trưởng kinh tế mà còn là yếu tố then chốt để xây dựng hình ảnh Việt Nam là một quốc gia có trách nhiệm, phát triển hài hòa với thiên nhiên.
Các sản phẩm thiên nhiên từ biển có tiềm năng rất lớn để xây dựng và phát triển thương hiệu Việt, đặc biệt khi người tiêu dùng toàn cầu ngày càng quan tâm đến nguồn gốc tự nhiên, bền vững và thân thiện với môi trường. Các lĩnh vực có thể khai thác sâu bao gồm:
Dược liệu và mỹ phẩm từ biển: Rong biển, tảo biển, và các loài thủy sinh vật chứa nhiều hợp chất sinh học quý giá có thể được ứng dụng trong sản xuất dược phẩm, thực phẩm chức năng và mỹ phẩm. Việc nghiên cứu, phát triển và chuẩn hóa các sản phẩm này theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ mở ra thị trường rộng lớn cho thương hiệu Việt. Ví dụ, chiết xuất từ tảo xoắn Spirulina hay collagen từ cá biển có thể trở thành những sản phẩm chủ lực.
Thực phẩm chế biến từ hải sản bền vững: Ngoài hải sản tươi sống, việc chế biến sâu các sản phẩm từ biển như nước mắm truyền thống, đồ hộp, sản phẩm sấy khô hay snack từ hải sản, được chứng nhận về nguồn gốc bền vững, sẽ giúp tăng giá trị và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Xây dựng câu chuyện thương hiệu gắn liền với quy trình đánh bắt có trách nhiệm và bảo vệ môi trường biển sẽ tạo được sự tin cậy từ người tiêu dùng.
![]() |
Khai thác bền vững biển giúp Việt Nam phát triển kinh tế xanh và xây dựng hình ảnh quốc gia thân thiện với thiên nhiên. Ảnh: Tiến Luyến. |
Du lịch sinh thái biển và trải nghiệm bản địa: Phát triển các tour du lịch sinh thái kết hợp với việc giới thiệu văn hóa biển, ẩm thực địa phương, và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm từ vật liệu biển tự nhiên có thể tạo ra những trải nghiệm độc đáo, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam. Các sản phẩm lưu niệm, quà tặng làm từ vỏ sò, ốc, hoặc vật liệu tái chế từ rác thải biển cũng có thể trở thành những sản phẩm mang tính biểu tượng, truyền tải thông điệp bảo vệ môi trường.
Nông nghiệp biển và nuôi trồng công nghệ cao: Đầu tư vào nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao trong nuôi trồng thủy sản sạch, an toàn sinh học không chỉ nâng cao năng suất mà còn đảm bảo chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường xuất khẩu. Cá tra, tôm, ngọc trai nuôi cấy, hay các loại rong biển giá trị cao là những ví dụ điển hình có thể xây dựng thương hiệu dựa trên chất lượng và tính bền vững.
Việc phát triển các sản phẩm này cần đi đôi với đầu tư vào công nghệ chế biến, nghiên cứu khoa học, xây dựng thương hiệu chuyên nghiệp và thực hiện các chiến lược marketing hiệu quả. Quan trọng hơn, cam kết bảo vệ môi trường biển, khai thác bền vững tài nguyên sẽ là "giấy thông hành" quan trọng giúp thương hiệu Việt vươn xa và chinh phục các thị trường khó tính nhất.
Tăng cường hợp tác quốc tế, thúc đẩy kinh tế biển xanh
Tham gia UNOC 3 không chỉ là cơ hội để Việt Nam khẳng định vai trò trên trường quốc tế mà còn là động lực để chúng ta nhìn nhận lại và khai thác hiệu quả hơn tiềm năng to lớn từ biển, biến những tài nguyên ấy thành giá trị kinh tế cụ thể, góp phần nâng tầm thương hiệu quốc gia.
![]() |
Phát triển các sản phẩm thiên nhiên từ biển "Made in Vietnam", tạo dựng thương hiệu quốc gia. Ảnh: Packaging of the World. |
Với tầm nhìn chiến lược, cam kết mạnh mẽ và sự chung tay của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và cộng đồng, Việt Nam hoàn toàn có thể hiện thực hóa khát vọng đưa các thương hiệu từ đại dương xanh vươn xa toàn cầu, khẳng định vị thế một quốc gia có trách nhiệm và phát triển bền vững. Đồng thời, Việt Nam cam kết tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, bao gồm tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học, chia sẻ công nghệ và huy động các nguồn lực tài chính xanh, nhằm phát triển kinh tế biển một cách bền vững và hiệu quả.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục thúc đẩy các sáng kiến về bảo vệ đại dương và giảm thiểu rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đồng thời tăng cường quản lý nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển các dự án kinh tế biển xanh, thân thiện với môi trường.
Việc tăng cường đầu tư cho hạ tầng, ứng dụng công nghệ cao trong quản lý tài nguyên biển và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành thủy sản cũng đang được đẩy mạnh nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và khai thác tối ưu tiềm năng đại dương của Việt Nam.
![]() |
![]() |