Thương hiệu - “tấm áo” nâng tầm giá trị hạt gạo Gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng giá trở lại Giá gạo Nhật Bản tăng vọt, gạo Việt sẽ có cơ hội? |
![]() |
Xuất khẩu gạo trong 2 tháng đầu năm 2025 ước đạt 1,1 triệu tấn (tăng 5,9% so với cùng kỳ). |
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, xuất khẩu gạo trong 2 tháng đầu năm 2025 ước đạt 1,1 triệu tấn (tăng 5,9% so với cùng kỳ) với giá trị đạt 613 triệu USD (giảm 13,6% so với cùng kỳ). Giá gạo xuất khẩu trung bình ước đạt 553,6 USD/tấn (giảm 18,3% so với cùng kỳ).
Tuy nhiên, sang tháng 3 đà giảm của giá gạo xuất khẩu đã chững lại và những ngày gần đây mỗi ngày đều nhích tăng từ 1-2 USD/tấn.
Theo đó, gạo 5% tấm của Việt Nam tại ngày 19/3 ở mức 394 USD/tấn (tăng 2 USD/tấn so với ngày 18/3), gạo 25% tấm ở mức 368 USD/tấn (tăng 1 USD/tấn); gạo 100% tấm ở mức 313 USD/tấn (tăng 3 USD/tấn) và đều tăng nhẹ so với tuần trước.
Với mức giá hiện nay, gạo xuất khẩu của Việt Nam đang thu hẹp dần khoảng cách với gạo xuất khẩu của Thái Lan và Ấn Độ khi giá gạo xuất khẩu tại hai thị trường này ghi nhận xu hướng giảm trong những ngày gần đây. Cụ thể, giá xuất khẩu gạo 5% tấm của Thái Lan tại ngày 18/3 ở mức 405 USD/tấn (cao hơn 11 USD/tấn so với gạo Việt Nam); gạo 25% tấm đứng ở mức 383 USD/tấn (cao hơn 15 USD/tấn so với gạo Việt Nam) và gạo 100% tấm đứng ở mức 348 USD/tấn (cao hơn 35 USD/tấn so với gạo Việt Nam). Giá gạo 5% xuất khẩu của Ấn Độ ở mức 400 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 381 USD/tấn.
Tuy nhiên, so với mức giá bình quân 627 USD/tấn năm 2024, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã giảm mạnh và vẫn ở mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua. Tính từ đầu năm 2025 đến nay, giá gạo 5% tấm xuất khẩu và giá gạo 25% tấm đều đã giảm trên 80 USD/tấn, trong khi gạo 100% tấm giảm khoảng 70 USD/tấn.
Theo đánh giá của các cơ quan chức năng và các chuyên gia trong ngành, nguyên nhân giá gạo suy giảm trong thời gian qua là do tình hình cung cầu trên thị trường quốc tế đang có dấu hiệu mất cân đối. Sản lượng gạo của 4 quốc gia cung cấp gạo lớn trên thế giới là Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan và Pakistan đều tăng so với niên vụ trước.
Trong khi đó, nhu cầu nhập từ các thị trường nhập khẩu lớn như Philippines và Indonesia lại đang chững lại do các nước này đã tích lũy đủ lượng gạo dự trữ trong năm 2024 và hiện đang chờ giá giảm thêm trước khi tiếp tục mua.
Ngoài ra, việc Ấn Độ nới lỏng lệnh hạn chế xuất khẩu gạo sau 2 năm tạm đóng cửa đã làm tăng nguồn cung trên thị trường quốc tế và tạo áp lực cạnh tranh đối với các nước xuất khẩu khác, bao gồm Việt Nam.
Mặc dù động thái bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm của Ấn Độ có tác động đến giá gạo trong nước và xuất khẩu của Việt Nam song theo các chuyên gia tác động chỉ mang tính tạm thời và chỉ ảnh hưởng tới phân khúc phẩm cấp chất lượng thấp. Với 80% lượng gạo xuất khẩu thuộc phân khúc chất lượng cao, gạo Việt được đánh giá là ít bị ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh từ gạo giá rẻ của Ấn Độ.
Thực tế với thế mạnh phân khúc riêng, hiện nông dân trồng lúa thơm và đặc sản như ST25 vẫn được thương lái mua với giá cao hơn cùng kỳ. Những doanh nghiệp xuất khẩu thị trường cao cấp vẫn giữ được mức giá từ 720 USD - 1.220 USD/tấn.
Từ góc độ doanh nghiệp xuất khẩu, ông Nguyễn Việt Anh, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Lương Thực Phương Đông (ORICO) cho biết, hiện giá lúa thơm đang được mua với mức ngang với đầu năm 2023 và cao hơn cùng kỳ các năm 2020, 2022. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã chủ động tìm kiếm thị trường, lượng lúa hàng hóa sản xuất ra nên không lo ngại vấn đề tiêu thụ.
“Hiện đang chính vụ Đông Xuân, lúa chín liên tục nên giá lúa thu mua giảm khi nguồn cung tăng. Tuy nhiên, một thời gian ngắn nữa, giá sẽ tăng lại khi cung cầu ổn định”, ông Nguyễn Việt Anh nói và cho hay các doanh nghiệp có đầu ra vẫn liên tục thu mua lúa tươi nhưng tốc độ sấy, xay, lưu kho có hạn... Các doanh nghiệp không dám mua trữ quá nhiều vì còn liên quan đến vấn đề lãi suất đi vay, rủi ro thị trường.
Do đó, theo ông Nguyễn Việt Anh, để người nông dân đỡ bị ép giá, bên cạnh việc doanh nghiệp tăng tạm trữ gạo, giải pháp lâu dài là người nông dân phải chủ động định đoạt được thời gian bán lúa (có vốn và có kho để chứa lúa, bán sau). Còn nếu vẫn bán lúa tươi ở đồng thì sẽ luôn bị tình trạng này.
Tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhận định qua giai đoạn khó khăn, thị trường lúa gạo có thể trở lại ổn định vào khoảng giữa cho đến cuối quý II/2025, bởi nhu cầu nhập khẩu các nước sẽ tăng lên.
Theo dự báo nhu cầu nhập khẩu gạo từ Trung Quốc năm nay vào khoảng 5-6 triệu tấn và Philippines là 4,5-4,7 triệu tấn, dự kiến tăng từ quý II/2025. Đây sẽ là yếu tố hỗ trợ giá gạo Việt Nam phục hồi.
Giá gạo Thái Lan thấp nhất trong hơn hai năm
Trong tuần này, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn hai năm qua, do nhu cầu yếu và nguồn cung tăng. Trong khi đó, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ giữ ổn định ở gần mức thấp nhất trong 21 tháng. Giá gạo 5% tấm của Thái Lan giảm xuống 405 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ cuối tháng 10/2022 và chạm mức thấp nhất trong phạm vi giá được báo cáo tuần trước từ 405-408 USD/tấn. Một thương nhân tại Bangkok cho biết nhu cầu rất yếu và tình hình này có thể tiếp diễn trong 2-3 tháng tới. Ông cho rằng tình hình rất đáng lo ngại và khách hàng thường xuyên chỉ mua theo nhu cầu trong khi thị trường đang dư cung. Giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức 403-410 USD/tấn, không đổi so với tuần trước. Một nhà giao dịch tại Kolkata cho biết Pakistan và Việt Nam đang tích cực bán gạo trắng và điều này thậm chí còn ảnh hưởng đến giá gạo đồ. Đầu tháng này, Ấn Độ cho phép xuất khẩu trở lại gạo 100% tấm, loại gạo đã bị cấm xuất khẩu từ tháng 9/2022. Trong khi đó, giá gạo trong nước tại Bangladesh vẫn ở mức cao bất chấp những nỗ lực tăng cường nhập khẩu và củng cố dự trữ, gây áp lực lên người tiêu dùng. Mặc dù Chính phủ Bangladesh đang mua gạo từ Việt Nam, Myanmar và Pakistan thông qua các thỏa thuận chính phủ và đấu thầu quốc tế song những thương nhân tư nhân phần lớn vẫn đứng ngoài, lo ngại giá giảm trên thị trường nội địa. |