Tôm Việt phải cạnh tranh gay gắt với tôm Ecuador
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), tính đến 15/5/2024, xuất khẩu tôm Việt Nam đạt 1,1 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính đến hết quý II năm nay, xuất khẩu tôm có thể tiếp tục duy trì đà tăng trưởng khi tồn kho giảm bớt, giá xuất khẩu khả quan hơn, nhu cầu tích cực hơn từ các thị trường chính.
Còn nhiều khó khăn cho ngành tôm |
Về thị trường, tính đến 15/5/2024, xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU đạt 134 triệu USD, tăng 1,2% so với cùng kỳ. Mặc dù con số lũy kế từ đầu năm chỉ tăng nhẹ nhưng xuất khẩu tôm sang thị trường này đã có xu hướng tăng tốt trong các tháng gần đây.
Ở thị trường Nhật Bản tính đến 15/5/2024, xuất khẩu tôm sang Nhật Bản đạt 161 triệu USD, giảm nhẹ 3% so với cùng kỳ. Thị trường Nhật Bản cũng có xu hướng tương tự thị trường EU. Giá trị xuất khẩu lũy kế từ đầu năm giảm nhẹ những đã có dấu hiệu tăng từ tháng 4.
Các đơn hàng từ EU và Nhật Bản dự kiến tăng trong quý II năm nay. Nhất là thị trường EU, có dấu hiệu cho thấy nhu cầu tăng, nhất là với các sản phẩm tôm có chứng nhận. Nhu cầu từ Nhật Bản cũng khá tích cực tuy nhiên đơn đặt hàng chậm hơn do đồng yên mất giá và tuần lễ (Golden Week).
Tính đến 15/5/2024, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Trung Quốc& HK đạt 223 triệu USD, tăng 31%. Mặc dù con số lũy kế sang thị trường Trung Quốc& HK tăng nhưng xuất khẩu sang thị trường này đã có dấu hiệu giảm trong những tháng gần đây.
Dự kiến, xuất khẩu tôm sang thị trường này trong quý II sẽ khó có thể tăng trưởng mạnh. Nguyên nhân là do nhu cầu tôm đông lạnh của Trung Quốc chậm lại. Trên thị trường này, Việt Nam còn phải cạnh tranh mạnh với Ecuador.
Bắt đầu từ 1/5/2024, Trung Quốc giảm thuế nhập khẩu xuống 0% cho tôm Ecuador theo Hiệp định Thương mại Tự do song phương. Bên cạnh đó, các nhà cung cấp tôm cho Trung Quốc còn phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh từ sản lượng tôm nội địa tăng gây áp lực lên giá tôm nhập khẩu.
Hầu hết các nhà máy chế biến lớn xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc& HK đã phải điều chỉnh giá nguyên liệu giảm 1-3%.
Thuế CVD có thể ảnh hưởng tới xuất khẩu tôm Việt sang Mỹ
Trong khi thuế CVD có thể ảnh hưởng tới xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ. Tính tới tháng 4 năm nay, Mỹ vẫn là thị trường tiêu thụ tôm chân trắng khả quan của Việt Nam.
Giá tôm chân trắng khả quan tại thị trường Mỹ |
Trong tháng 3/2024, Mỹ là thị trường duy nhất chứng kiến giá xuất khẩu trung bình tôm chân trắng đông lạnh tăng và vào tháng 4, giá lại tăng nhẹ 1% lên 9,80 USD/kg. Khối lượng nhập khẩu tôm chân trắng của Mỹ từ Việt Nam trong tháng 4 năm nay vẫn ổn định ở mức 4.168 tấn, mức cao hơn các thị trường khác.
Khối lượng nhập khẩu tôm chân trắng của Trung Quốc giảm nhẹ xuống còn 3.399 tấn trong tháng 4/2024 - khối lượng hàng tháng thấp nhất kể từ tháng 3/2023.
Giá trung bình xuất khẩu tôm chân trắng đông lạnh sang Trung Quốc vẫn ổn định ở mức 6,40 USD/kg, mức thấp nhất kể từ đầu năm 2023, nhưng cao hơn so với mức giá của năm 2021 và 2022.
Tháng 4/2024, xuất khẩu tôm chân trắng sang EU đạt 3.366 tấn- mức cao nhất từ tháng 8/2023. Giá trung bình xuất khẩu tôm chân trắng đông lạnh tăng sau khi giảm 1,4% xuống 7,40 USD/kg trong tháng 3.
Trong tháng 4 năm nay, giá xuất khẩu trung bình tôm chân trắng đông lạnh sang Nhật Bản giảm 1,2% đạt 8,50 USD/kg. Giá xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng 4,1% đạt 7,40 USD/kg.
Giá xuất khẩu trung bình tôm sú đông lạnh sang Trung Quốc giảm, giá xuất khẩu sang Mỹ ổn định
Nhập khẩu tôm sú của Trung Quốc từ Việt Nam tăng, đạt mức cao nhất từ tháng 10/2023 với 922 tấn tuy nhiên giá xuất khẩu trung bình tôm sú đông lạnh sang thị trường này giảm trong tháng 4, giảm 11,2% đạt 9,50 USD/kg.
Trong khi đó, khối lượng nhập khẩu tôm sú của Mỹ từ Việt Nam giảm, đạt 178 tấn,nhưng giá vẫn giữ ổn định ở mức 18,80 USD/kg - mức cao nhất trong một năm.
Xuất khẩu tôm Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức như giá xuất khẩu giảm, áp lực cạnh tranh mạnh từ các nguồn cung đối thủ, chi phí vận chuyển và giá đầu vào tăng mạnh, xung đột địa chính trị, suy thoái kinh tế thế giới.
Các doanh nghiệp tôm đã và đang nỗ lực vạch ra các chiến lược để phát triển như gia tăng chất lượng, tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình trên thị trường. Bên cạnh đó, áp dụng khoa học công nghệ vào cả khâu sản xuất và khâu nuôi để nâng hiệu suất và giảm giá thành sản phẩm.