Cây ké đầu ngựa là gì?
Cây ké đầu ngựa mọc hoang dại tại nhiều khu vực. Nhiều tài liệu chỉ ra rằng quê hương đầu tiên của ké đầu ngựa là vùng đất châu Mỹ, sau đó nó phát triển tại các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới như vùng châu Phi, châu Á,... Ké đầu ngựa xuất hiện trên dọc lãnh thổ Việt Nam, nơi thường thấy nhất là bờ ruộng, bờ mương hay bãi đất trống, thậm chí là vùng trung du, vùng núi và đồng bằng Bắc bộ từ Nghệ An trở ra.
Theo ngôn ngữ người Tày, ké đầu ngựa còn được người dân gọi là mac nháng, phắc ma hay xương nhĩ. Còn trong khoa học nó có tên là Xanthium strumarium L., họ Cúc.
Ké đầu ngựa được chia thành các loại khác nhau như ké hoa đào, ké hoa vàng, ké đồng tiền và ké đầu ngựa. Về mùi vị loài cây này có vị hơi đắng, ngọt nhạt, tính ấm. Theo tài liệu Đông y cổ, loài cây này nằm trong nhóm các vị thuốc “Tân ôn giải biểu". Hàm ý là loài thảo dược tính ấm, trị được bệnh cảm lạnh và các bệnh xâm nhập vào phần biểu (phần ngoài) của cơ thể.
Xét về hình thái và sinh trưởng, loài cây này có những đặc điểm sau:
Là giống cây ưa ẩm và ánh sáng, tập trung theo những đám lớn;
Trồng vào mùa xuân và mùa hè, nhất là khi hè sang ké đầu ngựa phát triển rất nhanh. Sau khi đã đơm hoa kết trái sẽ lụi tàn dần, và đó cũng là khi mùa vụ của nó đã bước qua thu;
Số lượng quả trên một cây khá nhiều. Một điểm thú vị là quả được thiên tạo thiết kế có gai móc, do đó khi con người hay động vật đi qua đám cỏ ké đầu ngựa quả sẽ vướng vào lông thú hay quần áo người để phát tán hạt đi xa;
Ké đầu ngựa có thể sinh trưởng tốt trên nhiều loại đất, chỉ trừ đất quá khô cằn nhiều sỏi đá hoặc đất ngập úng.
Thành phần hóa học của ké đầu ngựa khá đa dạng, bao gồm iot, saponin, alcaioid, chất béo, vitamin C, chất nhựa, xanthamin, xantheti, cacboxi atratylozit,... Ngoài ra còn có những chất độc hại cho gia súc như cholin, hydroquinon,...
Ké đầu ngựa còn có chứa dầu béo màu vàng nhạt, dạng lỏng, không mùi còn vị thì tương tự như dầu thực vật.
Quả của ké đầu ngựa chứa một số chất như sequiterpen lacton (xanthinin, xathanin và xanthumin), iod hữu cơ. Còn phần rễ có nhiều stigmasterol và sitosterol. Toàn cây còn chứa rất nhiều đạm, là một nguồn phân hữu cơ dồi dào.
Thảo dược đắt đỏ ở Trung Quốc
Theo từ điển y dược Trung tâm thông tin công nghệ sinh học Mỹ (NCBI), ngoài Việt Nam, cây ké đầu ngựa còn được phân bổ rộng rãi trên toàn thế giới, bao gồm Nga, Iran, Ấn Độ, Bắc Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Quốc.
Trong khi đó, theo Hindawi - một trong những nhà xuất bản lớn nhất thế giới tập hợp các chuyên san và nghiên cứu học thuật, loại cây này còn có mặt ở Bắc Mỹ, Brazil và Malaysia.
Nhiều người nghe tên thấy quen nhưng chỉ nghĩ đây là cây dại, không có tác dụng gì. Trên thực tế, ké đầu ngựa lại là một loại thảo dược có tác dụng tốt đối với sức khỏe.
Tại Trung Quốc, ké đầu ngựa sau khi gia công có giá rất đắt, có thể lên tới 500 NDT một kg (khoảng 1,6 triệu đồng).
NCBI cho hay, ké đầu ngựa là một loại thảo dược nổi tiếng trong y học cổ truyền Trung Quốc, còn được gọi là Cang-Er-Zi. Nó đã được sử dụng ở Trung Quốc hàng nghìn năm qua.
Năm 1963, ké đầu ngựa đã được đưa tên vào Dược điển của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và hiện có hơn 60 công thức chứa quả ké đầu ngựa đã được áp dụng để điều trị các bệnh khác nhau, trong đó có bệnh viêm mũi, viêm xoang mũi, nhức đầu, loét dạ dày, mề đay, thấp khớp, nhiễm trùng do vi khuẩn nấm và viêm khớp.
Hơn 170 hợp chất đã được phân lập và xác định từ loại cây này, có tác dụng giảm đau và chống viêm, chống oxy hóa, hạ đường huyết, chống ung thư, kháng khuẩn, kháng nấm, chống bệnh trypanosomal (hay bệnh ngủ), chống ho, đồng thời có tác dụng tốt đối với hệ thần kinh và tiêu hóa.
Ké đầu ngựa có tính vị, quy kinh, ngọt nhạt, hơi đắng đắng, tính ấm, hơi có độc. Trước khi ứng dụng trong y học lâm sàng, quả ké đầu ngựa thường được xử lý bằng cách đem nướng cho màu ngả vàng để giảm độc tính và tăng cường hiệu quả.
Bản ghi chép đầu tiên về tác dụng dược lý của ké đầu ngựa là Thần Nông bản thảo kinh. Cuốn này đề cập rằng, ké đầu ngựa được sử dụng để điều trị chứng đau đầu và viêm khớp dạng thấp.
Sau này, trong Danh y biệt lục, ké đầu ngựa được ghi nhận là có tác dụng trị đau dây thần kinh. Tiếp đó, cuốn Dược tính luận thời Nhà Đường mô tả ké đầu ngựa là vị thuốc chữa gan nóng và các bệnh về mắt, còn Tân Tu Bản thảo nói rằng ké đầu ngựa có tác dụng cải thiện thị lực, chống động kinh và chống thấp khớp.
Hiện nay, ké đầu ngựa đã trở thành một vị thuốc Đông y quan trọng được sử dụng trong phòng khám để điều trị các bệnh về mũi (bao gồm viêm mũi cấp và mãn tính, viêm mũi dị ứng (AR), viêm xoang và tắc mũi), giảm ngứa và đau.
Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu lâm sàng, nhiều dạng công thức khác nhau đã được phát triển, chẳng hạn như thuốc dạng viên nén, dạng bột, dung dịch uống…