PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan là nhà khoa học nữ duy nhất có công trình nghiên cứu được trao tặng giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan đã trải qua hơn 20 năm nghiên cứu kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), chị cùng các cộng sự đã thành công khi chứng minh với thế giới về khả năng thực hiện kỹ thuật này của Việt Nam.
Với muốn chinh phục bản thân và đi sâu vào kỹ thuật IVF nhưng Việt Nam khi đó chưa có nơi nào đào tạo và nghiên cứu về lĩnh vực này, chị Lan quyết định ra nước ngoài tìm hiểu thêm về IVF với hy vọng mang kỹ thuật về Việt Nam. Sau hai năm theo học tại Đại học Quốc Gia Singapore, chị về nước, cùng cộng sự nghiên cứu và điều chỉnh nhiều công đoạn thực hiện IVF phù hợp với Việt Nam.
PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cùng các thành viên trong nhóm nghiên cứu.
Việt Nam là cái tên xa lạ về kỹ thuật IVF trong con mắt các nhà chuyên môn thế giới. Không muốn giới nghiên cứu quốc tế đánh giá thấp, chị Lan cùng cộng sự quyết tâm với hơn 30 công bố được đăng trên tạp chí quốc tế. Trong đó câu hỏi nên sử dụng kỹ thuật chuyển phôi đông lạnh hay phôi tươi đã có câu trả lời từ kết quả nghiên cứu của nhóm: không cần thực hiện chuyển phôi tươi tất cả các bệnh nhân khi đi thụ tinh trong ống nghiệm.
Theo PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết, khi đó trên thế giới có khoảng 10 nhóm nghiên cứu ở các nước khác nhau gồm Trung Quốc, Mỹ, Anh, Úc, Đan Mạch, Hồng Kông,… thực hiện nghiên cứu về vấn đề này cùng lúc với chúng tôi nhưng nghiên cứu của chúng tôi hoàn thành trước các nhóm khác và cùng lúc với nhóm nghiên cứu của Chen và cộng sự ở Trung Quốc.
Theo PGS.TS Lan khi tiến hành nghiên cứu nhóm tập trung vào bốn điểm chính là: 1) Nghiên cứu chứng minh được chuyển phôi đông lạnh hiệu quả và an toàn như chuyển phôi tươi, do đó, các cặp vợ chồng điều trị TTTON không cần chuyển nhiều phôi tươi một lúc mà có thể giảm số phôi chuyển xuống, số còn dư được đông lạnh để sử dụng sau đó, tránh việc phải kích thích buồng trứng trở lại nếu thất bại; 2) Trữ phôi và giảm số phôi chuyển vào buồng tử cung, giúp giảm tỉ lệ đa thai, từ đó, hạn chế các biến chứng thai kỳ cho mẹ và con, cải thiện sức khỏe của trẻ sinh ra từ TTTON;
3) Các phụ nữ điều trị TTTON có nguy cơ quá kích buồng trứng, có thể thực hiện đông lạnh phôi toàn bộ, sau đó thực hiện chuyển phôi rã đông, sẽ giúp giảm biến chứng quá kích buồng trứng; 4) Cả 2 phương pháp chuyển phôi đều hiệu quả như nhau, do đó, các bác sĩ không nên chuyển sang thực hiện chuyển phôi đông lạnh cho tất cả bệnh nhân vì sẽ làm kéo dài thời gian từ lúc bắt đầu điều trị đến lúc có thai và tăng chi phí của bệnh nhân.
Kết quả của nghiên cứu đã góp phần làm vào thay đổi thực hành trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản trên thế giới và ở Việt Nam.
"Chúng ta có thể đông lạnh phôi lại và giảm số phôi chuyển xuống, mỗi lần chỉ cần chuyển một phôi. Phương pháp này giảm nguy cơ kích thích buồng trứng, giảm nguy cơ đa thai cho bệnh nhân", PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết.
Công trình này khi được công bố quốc tế đã góp phần làm thay đổi thực hành thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. Người bệnh cũng nhờ đó được giảm chi phí hơn. Trước đó là kỹ thuật trưởng thành noãn non trong ống nghiệm cũng từng được nhiều hội nghị chuyên ngành lớn trên thế giới mời chuyên gia Việt Nam báo cáo, trao đổi kinh nghiệm.
Việt Nam hiện có hơn 10.000 ca thụ tinh ống nghiệm thành công. Ước tính cả thế giới mỗi năm có hơn hai triệu cặp vợ chồng thực hiện TTTON và có gần ba triệu lượt chuyển phôi đông lạnh; ở Việt Nam hiện nay mỗi năm có hơn 30.000 cặp vợ chồng thực hiện TTTON và gần 40.000 trường hợp chuyển phôi đông lạnh. Việc trả lời câu hỏi khi nào thực hiện kiểu chuyển phôi nào giúp tăng hiệu quả điều trị, giảm biến chứng, giảm chi phí và rút ngắn thời gian điều trị cho bệnh nhân.
Bây giờ chị Lan đảm nhiệm vai trò Trưởng bộ môn Phụ sản, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và tiếp tục theo đuổi nghiên cứu để chỉ ra giá trị điểm cắt nào của progesterone giúp các bác sỹ đưa ra quyết định chuyển phôi tươi hay đông lạnh, nên thực hiện nuôi cấy phôi ba ngày hay năm ngày, hiệu quả và chi phí như thế nào?
Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm nay dự kiến tổ chức vào ngày 18/5 tại Hà Nội, nhân kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Đây là giải thưởng do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức hàng năm, nhằm khích lệ và tôn vinh các nhà khoa học có kết quả công bố xuất sắc trong nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật.
Qua 6 năm tổ chức, Giải Tạ Quang Bửu đã trao cho 17 nhà khoa học ở các trường đại học và viện nghiên cứu, thuộc các ngành, lĩnh vực: Toán học, Khoa học thông tin và máy tính, Vật lý, Hóa học, Khoa học trái đất và môi trường, Khoa học nông nghiệp, Khoa học y dược, Cơ học kỹ thuật.
Đinh Hoàng