![]() |
Hệ thống logistics và hạ tầng hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam còn nhiều bất cập, trở thành một trong những “điểm nghẽn” lớn cản trở nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. . Ảnh: T.H |
Xuất khẩu Việt Nam đối diện nhiều thách thức
Trong 9 tháng năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 680,66 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 16%, nhập khẩu tăng 18,8%. Xuất siêu vẫn được duy trì ở mức cao, phản ánh sức vươn mạnh mẽ của doanh nghiệp, song những con số này cũng cho thấy áp lực cạnh tranh và rủi ro đang gia tăng. Hiện Việt Nam có lợi thế xuất khẩu nhờ mạng lưới 17 FTA, bao gồm CPTPP, EVFTA, RCEP… mở ra cơ hội tiếp cận các thị trường quy mô lớn.
Tuy nhiên, xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều vào các thị trường trọng điểm như Mỹ, Trung Quốc, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, nên rủi ro tăng cao khi xảy ra biến động thương mại hoặc chính sách thuế đối ứng. Một số ngành hàng xuất khẩu chủ lực như điện tử, dệt may, da giày, thủy sản, gỗ đang chịu sức ép cạnh tranh gay gắt và nguy cơ phòng vệ thương mại. Sản phẩm chế biến sâu, công nghệ cao, gắn với thương hiệu quốc gia còn hạn chế, trong khi các yêu cầu về tiêu chuẩn xanh, giảm phát thải, truy xuất nguồn gốc ngày càng khắt khe, trở thành “giấy thông hành” bắt buộc vào nhiều thị trường.
Cơ cấu xuất khẩu hiện vẫn thiên về gia công, lắp ráp, tỷ trọng hàng hóa có giá trị gia tăng cao còn thấp. Năng lực tham gia vào các khâu giá trị cao trong chuỗi toàn cầu hạn chế, đặc biệt về thiết kế, xây dựng thương hiệu, marketing, phân phối quốc tế. Việc tiếp cận dữ liệu thị trường, phân tích người tiêu dùng và vận hành kênh số chưa phát triển khiến doanh nghiệp khó chủ động đưa sản phẩm lên kệ trên các hệ thống bán lẻ và sàn thương mại điện tử quốc tế.
Theo ông Lê Hoàng Tài – Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương), phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn về tài chính, công nghệ, quản trị chất lượng và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế. Điều này khiến doanh nghiệp khó tiếp cận các yêu cầu về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn môi trường – vốn là điều kiện “giá vé” vào các thị trường khó tính, dẫn đến việc bị loại ngay từ vòng sơ tuyển nhà cung cấp.
Hệ thống logistics và hạ tầng hỗ trợ xuất khẩu cũng là điểm nghẽn lớn. Kho bãi, cảng biển, trung tâm logistics chưa kết nối liên vùng và liên ngành, làm tăng chi phí, thời gian giao hàng, hạn chế khả năng đáp ứng nhanh nhu cầu thị trường và giảm năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Ở góc độ doanh nghiệp, ông Bùi Trần Nhân Trí – Phó Tổng Giám đốc Thilogi – cho biết năm 2024, sản lượng hàng hóa qua cảng quốc tế Chu Lai đạt 4,1 triệu tấn, trong đó xuất khẩu chiếm 57%. 9 tháng đầu năm 2025, sản lượng hàng qua cảng đạt hơn 3,2 triệu tấn, xuất khẩu đạt 1,7 triệu tấn, dự kiến cả năm tổng sản lượng đạt 5,1 triệu tấn. Tuy tăng trưởng khả quan, chi phí logistics cao, đặc biệt tại miền Trung, đang là thách thức cần giải quyết.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu
![]() |
Doanh nghiệp cần chú trọng chuyển từ xuất khẩu hàng thô, sơ chế sang sản phẩm chế biến sâu, sản phẩm giá trị gia tăng cao, đẩy mạnh sản phẩm xanh, hữu cơ, bền vững,.... |
Để tận dụng cơ hội từ các FTA thế hệ mới, doanh nghiệp cần đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Bà Lê Thị Thanh Minh – Đại diện Vụ Phát triển thị trường nước ngoài (Bộ Công thương) – nhấn mạnh doanh nghiệp nên chuyển từ xuất khẩu thô, sơ chế sang sản phẩm chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là sản phẩm công nghệ cao, điện tử, linh kiện, chíp bán dẫn, phần mềm, cũng như các sản phẩm xanh, hữu cơ, bền vững như gạo hữu cơ, cà phê hữu cơ, xe điện, pin mặt trời…
Các doanh nghiệp cũng cần đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ và quy trình sản xuất theo hướng xanh – sạch – thông minh, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm được xem như “hộ chiếu” dài hạn để mở rộng thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, chú trọng các thị trường ngách và đa dạng hóa chuỗi cung ứng giúp giảm rủi ro, nâng cao khả năng thích ứng trước biến động thị trường.
Về hạ tầng và logistics, ông Bùi Trần Nhân Trí kiến nghị hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cấp kết cấu hạ tầng kỹ thuật, giao thông, phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển và trung tâm logistics. Đặc biệt, miền Trung cần đầu tư đồng bộ để giảm chi phí logistics, tận dụng vị trí chiến lược kết nối các hành lang Bắc – Nam và Đông – Tây, phát triển khu thương mại tự do và trung tâm logistics quy mô lớn.
Ở cấp quản lý cao hơn, ông Lê Hoàng Tài cho biết sẽ tập trung ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong xúc tiến thương mại. Các hoạt động kết nối giao thương trực tuyến, gian hàng quốc gia trên sàn thương mại điện tử trong và ngoài nước, mô hình thương mại điện tử xuyên biên giới, cùng chương trình đào tạo kỹ năng số, phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo sẽ được đẩy mạnh.
Sự chủ động của doanh nghiệp kết hợp định hướng, hỗ trợ của Chính phủ sẽ là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và tăng giá trị xuất khẩu. Việc phát triển sản phẩm giá trị cao, xây dựng thương hiệu mạnh và cải thiện hạ tầng logistics đồng bộ sẽ giúp doanh nghiệp Việt sẵn sàng nắm bắt cơ hội trên thị trường quốc tế, giảm rủi ro trước biến động và khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.