Tôn vinh 90 "Thương hiệu Vàng nông nghiệp Việt Nam năm 2025" Bứt phá từ mô hình nông nghiệp công nghệ cao kết hợp du lịch biển "Hái ra tiền" nhờ mô hình nông nghiệp không chất thải |
![]() |
Anh Lê Văn Tám và những sản phẩm ống hút nhiều màu sắc từ bột rau, củ. |
Giá thành cao và khó tiếp cận công nghệ
Nhiều HTX đã tiên phong dấn thân vào nông nghiệp xanh, áp dụng các quy trình thân thiện với môi trường từ thực phẩm, thời trang đến các sản phẩm tiêu dùng như bao bì, ống hút. Tuy nhiên, dù mang “sứ mệnh kép” về kinh tế và môi trường, hành trình xanh hóa vẫn đối mặt vô vàn rào cản, từ giá thành, khả năng tiếp cận công nghệ, đến sự thiếu vắng các chính sách hỗ trợ đủ mạnh. Một trong những thách thức lớn nhất là chi phí.
Việc đầu tư vào công nghệ sạch, nguyên liệu hữu cơ hoặc tái chế, cùng việc tuân thủ các quy trình khắt khe, khiến chi phí sản xuất cao hơn đáng kể so với phương thức truyền thống. Hệ quả là giá thành sản phẩm xanh bị đội lên, tạo ra khoảng cách lớn với thu nhập và thói quen tiêu dùng của đại đa số người dân. Ông Lê Văn Tám, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Sông Hồng (Hà Nội), chia sẻ: sản phẩm của HTX xuất khẩu thành công sang Đức, Anh, Nhật Bản nhưng rất khó tiêu thụ tại thị trường nội địa. Sự nhạy cảm về giá khiến các sản phẩm xanh không thể cạnh tranh với hàng rẻ hơn, dù kém thân thiện môi trường.
Khảo sát gần đây cho thấy khoảng cách giữa nhận thức và hành vi tiêu dùng: 50% người quan tâm sản phẩm xanh nhưng chỉ dưới 30% sẵn sàng trả thêm tiền. Khoảng cách gần như gấp đôi này phản ánh thực tế người tiêu dùng ủng hộ ý tưởng “xanh” nhưng chưa sẵn sàng chuyển thành hành vi mua sắm cụ thể. Điều này tạo vòng luẩn quẩn: sản phẩm xanh khó mở rộng quy mô vì chi phí cao, trong khi chi phí vẫn cao vì chưa đạt kinh tế nhờ quy mô. Bên cạnh áp lực giá, gánh nặng đầu tư ban đầu và rào cản công nghệ là trở ngại không nhỏ.
HTX rau Tuấn Ngọc (TP.HCM) đã đạt 70-80% tiêu chuẩn xanh nhờ trồng rau thủy canh trong nhà lồng, lắp điện mặt trời và sử dụng xe điện. Tuy nhiên, chi phí đầu tư lớn làm tăng giá sản phẩm. Phần lớn thành viên là người lớn tuổi, khó tiếp cận công nghệ mới và quy trình mới. Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, HTX Vạn Ninh đối mặt thách thức lớn về vốn để chuyển lồng bè truyền thống sang HDPE, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và bảo vệ môi trường biển.
Dù đã tiếp cận vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội, HTX vẫn cần lượng vốn lớn để mua lồng, tàu, cẩu và thiết bị lặn chuyên dụng. Việc chỉ áp dụng sản xuất xanh ở một số công đoạn hoặc quy mô nhỏ khiến khả năng thương mại hóa còn hạn chế, khó đạt hiệu quả kinh tế và bền vững. Áp lực từ thị trường quốc tế ngày càng tăng. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh Châu Âu sẽ áp dụng từ 2026, yêu cầu kê khai và nộp chứng chỉ carbon.
Khảo sát cho thấy gần 80% HTX chưa thiết lập bộ phận chuyên trách hay hệ thống dữ liệu phát thải, gây khó khăn nghiêm trọng trong việc đáp ứng yêu cầu xuất khẩu bền vững. Nếu không chuẩn bị sớm, các HTX sẽ bị động trong thương mại quốc tế và khó mở rộng thị trường xanh. Ngoài ra, thách thức nội tại từ nguồn nhân lực cũng đáng lưu ý. Phần lớn thành viên HTX là lao động lớn tuổi, chưa quen với công nghệ và quy trình mới. Việc đào tạo lại, hướng dẫn sử dụng thiết bị, triển khai quy trình xanh cần thời gian và chi phí, khiến quá trình chuyển đổi chậm hơn mong muốn.
Hỗ trợ chính sách và công nghệ thúc đẩy phát triển
![]() |
Xơ, sợi được sản xuất từ lá dứa. |
Để vượt qua các thách thức, giải pháp then chốt là đổi mới công nghệ và chính sách hỗ trợ đồng bộ. Công nghệ giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng thương mại và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Ông Nguyễn Ngọc Thành, Giám đốc HTX Tân Hòa Đông (Đồng Tháp) cho biết, ngay cả việc sản xuất xơ sợi từ lá dứa hay chuyển đổi dứa hữu cơ còn hạn chế về quy mô và khả năng thương mại hóa do khó tiếp cận công nghệ.
Thiếu sự phối hợp giữa doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà đầu tư cũng cản trở phát triển các mô hình tiềm năng. HTX cần được hỗ trợ tiếp cận giải pháp công nghệ tiên tiến, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh bền vững. Đồng thời, việc áp dụng công nghệ xanh phải đi kèm đào tạo, hướng dẫn thực hành và chuyển giao quy trình để đảm bảo hiệu quả trên diện rộng.
Chính sách là “bệ đỡ” quan trọng để thúc đẩy chuyển đổi xanh. Ông Lâm Ngọc Tuấn bày tỏ: chuyển đổi xanh là tất yếu nhưng nếu không có hỗ trợ từ chính sách, nhiều HTX nhỏ sẽ khó theo kịp xu thế. Sự hỗ trợ cần được cụ thể hóa bằng các chính sách thiết thực: vay vốn ưu đãi, hỗ trợ thuê đất, thuê mặt bằng, giảm áp lực chi phí cố định. Ngoài ra, cần cơ chế khuyến khích liên kết giữa HTX, doanh nghiệp và nhà khoa học để triển khai các dự án công nghệ xanh, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng lực thương mại hóa.
Các chuyên gia khởi nghiệp đồng quan điểm: chính sách đặc thù về tài chính, đào tạo nhân lực và truyền thông sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho HTX – những hạt nhân quan trọng của nền nông nghiệp – để chuyển đổi xanh hiệu quả. Sự tham gia tích cực của cộng đồng và người tiêu dùng cũng đóng vai trò quan trọng. Khi nhận thức xanh đi đôi với hành động tiêu dùng cụ thể, sản phẩm xanh sẽ có cơ hội mở rộng thị trường, từ đó hạ giá thành nhờ quy mô và cải thiện hiệu quả kinh tế.
Chỉ khi chính sách hỗ trợ đặc thù được triển khai, nguồn vốn khơi thông, công nghệ được chuyển giao phù hợp, các HTX mới vượt áp lực giá và quy mô, trở thành động lực dẫn dắt nền nông nghiệp Việt Nam xanh, bền vững và hội nhập. Hành trình xanh hóa là bức tranh tổng hòa giữa ý chí kiên định và rào cản lớn. Sự đồng bộ giữa chính sách, công nghệ, nguồn lực và hành vi tiêu dùng sẽ tạo sức bật cần thiết, giúp HTX thực sự trở thành trụ cột phát triển nông nghiệp xanh hướng tới nền kinh tế bền vững, hội nhập và có trách nhiệm với môi trường.