Chỉ 113/3.143 số doanh nghiệp dệt may được tiếp nhận hỗ trợ từ Chính phủ sau dịch COVID-19
Ngày 29/6, Chương trình nghiên cứu chiến lược Mekong – Trung Quốc (MCSS) đã công bố báo cáo “Dệt may Việt Nam: Tác động của Covid-19 và xa hơn nữa”, tại Hà Nội.
Phát biểu tại hội thảo , TS. Phạm Sỹ Thành - Giám đốc Chương trình MCSS, Trưởng nhóm nghiên cứu thực hiện báo cáo cho biết, tại Việt Nam, dệt may là một trong những ngành kinh tế quan trọng. Với gần 3 triệu lao động, ngành đang giải quyết 5% tổng số lao động và đóng góp 12,4% vào tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019 của Việt Nam.
Dệt may là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ ba với giá trị hơn 33 tỷ đô la Mỹ gần gấp đôi giá trị xuất khẩu hàng nông sản nhưng đại dịch Covid-19 đã khiến ngành dệt may gặp rất nhiều khó khăn. Lần đầu tiên tất cả các mặt hàng xuất khẩu của ngành dệt và ngành may mặc đều bị suy giảm.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 chưa được kiểm soát hoàn toàn trên phạm vi toàn cầu, sự mở cửa trở lại của các nền kinh tế chủ chốt châu Âu và Mỹ với thế giới bên ngoài chưa xác định được rõ thời gian và mức độ, nên có thể nhận định rằng năm 2020 và năm 2021 sẽ là thời điểm hết sức khó khăn của ngành dệt may.
Đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến cả nguồn cung và đầu ra của ngành dệt may. Xét theo các thị trường xuất khẩu chủ chốt, 5 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu vào thị trường Mỹ giảm 14,9%, thị trường EU giảm 19%.
Chỉ có 3,6% doanh nghiệp dệt may được hưởng các giải pháp hỗ trợ
Trong cuộc khảo sát đối với 3.143 doanh nghiệp dệt may của Tổng cục thống kê, về thông tin và mức độ thụ hưởng các biện pháp hỗ trợ được nêu trong Chỉ thị 11/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Kết quả điều tra cho thấy chỉ có 113 doanh nghiệp, chiếm 3,6% tổng số doanh nghiệp khảo sát, đã tiếp nhận chính sách hỗ trợ; trong đó có 8,6% là doanh nghiệp nhà nước, 3,2% là doanh nghiệp tư nhân và 4,7% là doanh nghiệp FDI.
Đặc biệt, có 8,7% số doanh nghiệp dệt may được khảo sát không biết gì về Chỉ thị 11/CT-TTg, trong đó số doanh nghiệp nhà nước chiếm 5,7%, doanh nghiệp tư nhân là 8,1% và doanh nghiệp FDI là 11,5%.
Ngoài ra, có 59,3% số doanh nghiệp dệt may được khảo sát cho biết họ đã biết đến Chỉ thị 11/CT-TTg nhưng không biết đầu mối để tiếp cận chính sách hỗ trợ.
Đại diện Tập đoàn Dệt may Việt Nam cho biết, tình trạng khó khăn chung hiện nay của toàn ngành là bị hủy đơn hàng đồng loạt do các thị trường châu Âu và Mỹ đều đóng của. Ngành may mặc có tỷ lệ bị hủy đơn hàng từ 30-70%, sau khi tham gia sản xuất khẩu trang, tỷ lệ bị hủy đơn hàng của các doanh nghiệp may mặc trong Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) trung bình là 25%.
Bên cạnh đó, còn có những rào cản về chính sách, khi quá ít doanh nghiệp dệt may thụ hưởng các giải pháp hỗ trợ (chỉ 133/3.143 doanh nghiệp, chiếm 3,6% tổng doanh nghiệp được khảo sát đã tiếp nhận được các chính sách hỗ trợ) hay việc khó tiếp cận được các giải pháp hỗ trợ tín dụng.
Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này cho rằng, việc giãn, giảm hoặc miễn thuế không có nhiều tác dụng tích cực đối với doanh nghiệp của ngành. Cụ thể, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có văn bản cho phép hoãn đóng bảo hiểm xã hội đối với các doanh nghiệp có trên 50% lao động phải nghỉ việc. Nhưng trên thực tế để giữ chân lao động, nhiều doanh nghiệp đã cố gắng không để công nhân phải nghỉ việc. Các doanh nghiệp đã phải bố trí giãn việc, cho công nhân làm luân phiên. Những trường hợp này sẽ không được hoãn đóng bảo hiểm xã hội. Điều này trực tiếp gây khó khăn thêm cho doanh nghiệp dệt may.
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do Covid-19 có quy định việc hỗ trợ 1,8 triệu đồng/tháng đối với người lao động bị buộc thôi việc do doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của đại dịch, thời gian hỗ trợ 3 tháng. Mức hỗ trợ này tương đương 41% lương tối thiểu vùng 1, 46% lương tối thiểu vùng 2 và 52% lương tối thiểu vùng 3. Tuy nhiên các lao động rất khó khăn khi nhận hỗ trợ do thủ tục quá rườm rà.
Ngành dệt may Việt Nam không có chuỗi cung ứng đầy đủ nên rất khó tận dụng lợi thế của các FTA
Dệt may khó tận dụng lợi thế từ các FTA
Cũng theo báo cáo MCSS, ngành dệt may Việt Nam không có chuỗi cung ứng đầy đủ nên rất khó tận dụng lợi thế của các FTA. Một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ tận dụng FTA của Việt Nam rất thấp là không tự chủ được vấn đề xuất xứ hàng hóa.
Ghi nhận đến năm 2020, Việt Nam đã ký và có 12 FTA có hiệu lực, 1 FTA đợi phê chuẩn và đang đàm phán 3 FTA khác. Việc kí kết FTA đem lại cho ngành dệt may những ưu thế cạnh tranh xuất khẩu vô cùng to lớn. Cụ thể, thuế suất áp dụng đối với ngành dệt và nguyên liệu, với ngành may trung bình là 0 - 5%, trong khi đó, theo quy chế của WTO, thuế suất với ngành dệt và nguyên liệu trung bình là 12% và với ngành may mặc là 25%.
Mặc dù nhiều lợi ích như vậy, nhưng đến nay, các lợi thế này chỉ tồn tại về mặt lý thuyết. Số liệu cho thấy, tỷ lệ tận dụng FTA của Việt Nam chỉ đạt trung bình 30 – 35%. Điều này có nghĩa, Việt Nam chỉ mới tận dụng được 1/3 lợi ích từ các FTA đã có hiệu lực.
Theo đánh giá của MCSS, Việt Nam không dễ dàng tận dụng được ưu đãi của các FTA thế hệ mới như EVFTA hay trước đó là CPTPP.
TS. Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình MCSS, Trưởng nhóm nghiên cứu thực hiện báo cáo cho rằng, với hiệu ứng của việc hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam - EU được phê chuẩn, dệt may Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn vào sáng tạo để tạo ra nhiều giá trị tăng thêm cho ngành. Để làm được việc đó, rất cần nhà nước có những thay đổi mạnh mẽ về chính sách và cơ cấu thuế, giá phù hợp.
Bên cạnh đó, cần tận dụng các FTA nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút dịch chuyển đầu tư FDI vào sản xuất nguyên phụ liệu nhằm đáp ứng yêu cầu về qui định xuất xứ; Để CPTPP đem lại nhiều lợi ích hơn cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam, cần thiết phải ký một FTA song phương với Canada vì đây là thị trường xuất khẩu may mặc tiềm năng, quy mô lớn; Cần cải thiện vị trí chuỗi giá trị bằng liên kết chuỗi cung ứng, có chính sách hợp lý cho ngành dệt may...
Minh Kiệt